Đành rằng ngôn ngữ cũng là một thứ sử liệu nhưng ta
không thể có tham vọng biết lịch sử với độc một nguồn
ngôn ngữ. Thí dụ, ở bài trước, chúng tôi có nói người
Trung Hoa không có tiếng "Nắng" theo cái nghĩa Nắng
của ta. Họ nói Phơi. Nhưng rồi sau đó, họ vẫn có tiếng
Thử. Nhưng đó là sáng tạo về sau mà họ đã quen miệng
với tiếng Phơi, tiếng Thử chỉ để viết chứ không nói. Như
vậy, kết luận rằng từ thuở sơ khai, trên lãnh phổ Trung Hoa
chánh gốc (Thiểm Tây, Hà Nam) trời không có nắng là sai.
Thuở ban đầu, họ không có tiếng Nắng, không hiểu vì lẽ
gì, còn phải tìm ở các nguồn khác nữa, chớ ngôn ngôn ngữ
không phải là một chứng tích đủ sức nặng một cách tuyệt đối.
Nhưng nếu chứng tích ngôn ngữ được đối chiếu với một
vài chứng tích khác thì có hy vọng tìm ra phần nào sự thật
trong cõi u minh của thời gian, những chứng tích khác ấy,
riêng lấy nó cũng không đủ để chứng minh một cách đích
xác sự kiện nào thì ngôn ngữ, trong trường hợp đó, là một
sử liệu tốt để bổ túc vậy.
Những cuộc khai quật cổ vật ở Đông Sơn và Lạc Trường
trước chiến tranh, quả có rọi ánh sáng vào buổi bình minh
của dân tộc ta thật đó, nhưng đó là một thứ ánh sáng mờ
ảo, không cho ta thấy rõ cái gì cho lắm, lại còn làm ta bối rối thêm.
Ta cần phải nỗ lực nhiều năm nữa, chớ không nên vội vàng
nhận người Đông Sơn là tổ tiên của ta, hoặc chối phăng họ
là tổ tiên của ta. Phủ nhận hay nhìn nhận gì cũng phản
khoa học cả, nếu ta chỉ bằng lòng với những công trình
nghiên cứu của những ông V. Gouloubew, những ông O.
Jansé v.v..., họ chỉ mới làm việc có một giai đoạn thôi,
chưa xong gì cả.
Theo khoa học thì lịch sử giống như sợi dây xích sắt, có
cái khoen đầu, những khoen giữa và cái khoen chót. Khoen
đầu là người Đông Sơn, tức Lạc Việt, khoen chót là người
Việt Nam ngày nay, vậy cần tìm cho ra những khoen trung
gian mới được phép kết luận rằng Lạc Việt = Việt Nam,
bởi hai thứ dân đó khác nhau quá xa. Nhưng phủ nhận
cũng sai khoa học, bởi những khoen trung gian ấy chưa
tìm thấy, chứ không phải là chắc chắn không có.
Bổn phận chúng ta là đi tìm những cái khoen đó, mỗi
người một nẻo. Những khoen trung gian là hình ảnh biến
chuyển của nền văn minh Anh-đô-nê-diêng của Lạc Việt
sang nền văn minh Trung Hoa của Việt Nam trên bước
truy tầm này, ta đừng quên ngôn ngữ cổ Việt.
Trước hết ta thử xét qua chế độ mẫu hệ của ta bằng vào
danh từ CHA.
Sách Tiền Hán Thư viết rằng ta không có tình cha con. Thế
nghĩa là thuở ấy ta còn theo mẫu hệ như người Chàm ngày
nay, mà còn tệ hơn nữa là người Chàm ngày nay, tuy còn
theo họ mẹ, nhưng vẫn biết cha, vì vợ chồng sống chung
với nhau, còn Tiền Hán Thư thì cho rằng ta "không biết
đạo vợ chồng, vì vợ chồng chỉ lấy nhau (vì sinh lý) mà
không có sống chung với nhau".
Thế sao ta lại có danh từ cha? Danh từ này, Quan thoại là
Fuá tsíl, Quảng-đông là Fùa tsánh, Hán Việt là Phụ thân.
Xem ra thì danh từ cha của ta không phải do tiếng Tàu mà ra.
Quan-thoại và Quảng-đông đều có Pà, Pá, tức cũng là Cha
đó, mà đó không phải là danh từ để chỉ ai, mà là đại-danh-
từ của con xưng hô với cha; ta cũng đã vay mượn Pa, Pá,
biến thành Bố (Bắc Việt), thành Ba (Nam Việt), còn Cha
thì khó có thế là một biến thể thứ ba của Pá được.
Trong ngôn ngữ Trung-hoa, có tiếng Tía của Quan thoại,
mà Tía là Đệ tức em trai. Thổ ngữ Triều châu có tiếng Tía
tức dại danh từ Pá đó, nhưng danh từ cha của ta là danh từ
chớ không phải đại danh từ, vả lại Tía cũng khó lòng biến
thành Cha, và người Triều-châu chỉ leo heo có mấy huyện
ở bên Tàu thì nếu phải vay mượn, ta không vay mượn của
đám thiểu số ấy đâu. Năm 1658, có nhóm lưu vong nhà
Minh sang Nam-kỳ, gồm rất đông Triều-châu, nên người
miền Nam quả có mượn đại danh từ Tía của Triều-châu
thật đó, khi con xưng hô với cha, nhưng toàn quốc thì
không hề có vay mượn ngôn ngữ của nhóm ấy.
Pà, Pá, Ba, Bố, Tía gì cũng để dùng xưng hô, thí dụ: "Ba
ơi, cho con đi chơi" hoặc: "Tía ơi, con đói bụng" chớ
không ai lại nói: "Gia đình gồm ông, bà, ba, mẹ, và các con."
Đại danh từ Bố đã hơi được biến thành danh từ thật đó,
người ta nói: "Bố anh Nam rất già." Nhưng chưa biến hẳn,
chẳng hạn không thể nói: "Chém bố cái kiếp ba đào" hay
có thể nói, nhưng chỉ nói đùa, hoặc nói một cách thân mật mà thôi.
*
Nghe các sử gia Pháp phụ họa theo các sử gia Tàu nói rằng
thuở ấy ta còn theo chế độ mẫu hệ, các nhà học giả ta giãy
nảy lên và phủ nhận, viện bằng chứng rằng ta đã có vua
đàn ông là Hùng Vương.
Nhưng Hùng Vương không chắc lắm là đàn ông, hơn thế
một dân tộc theo chế độ mẫu hệ vẫn có vua đàn ông như
thường, bằng chứng là dân tộc Chàm. Nếu vua họ là đàn bà
thì ai cưới Huyền Trân Công chúa của ta?
Chứng tích "Vua đàn ông" xem ra nặng cân không bằng
danh từ Cha.
Ta có thể nào tân tạo danh từ Cha, sau khi tiếp xúc với nhà
Hán hay chăng? Có thể, nhưng lại không. Thường thì khi
một dân tộc vay mượn một món đồ, một ý niệm, họ vay
mượn luôn danh từ trong ngôn ngữ của dân tộc cho vay.
Thí dụ ta vay mượn cái xà rông của dân Mã Lai thì vay
luôn danh từ xà rông; người miền Nam vay mượn một thứ
bánh của người Chàm thì họ vay mượn luôn tên bánh, chỉ
có một chút thay đổi là thay vì dùng tiếng Chàm, họ dịch
sát nghĩa ra tiếng ta. Người Chàm gọi bánh đó là bánh Gan
con Tây (tức con Tê ngưu), ta cũng dịch y nguyên là bánh
Gan con Tây. (Sau này, vì luật lười biếng, người miền
Nam nói tắt là Bánh Gan.)
Sự tân tạo chỉ để dành cho sáng tạo, cho phát minh riêng
của dân tộc. Người Trung Hoa thường tránh mượn tiếng
nước khác, nhưng vẫn phải phiên âm nhiều món như Cà-
phê, Quan-thoại đọc là Khá fi, Quảng đông đọc là Cafế.
Thế thì ta đã bắt đầu bước sang chế độ phụ hệ rồi, vào thuở
nhà Hán sang đây, chưa bước hẳn, nhưng ở lưng chừng
giữa hai chế độ như người Thượng Kontum ngày nay, gái
cưới chồng, nhưng trai cũng cưới vợ. Các sử gia Trung
Hoa họ chỉ nói quá để sự xâm lược của họ có một lý do
chính đáng là lý do khai hóa dân man di.
Thật là rủi ro cho dân tộc ta, nguồn sử thành văn độc nhất
là các cổ thư Trung Hoa, nhưng lại không thể tin bằng lời
được vào những quyển sách đó thì công việc viết sử của ta
phải khó nhọc vô cùng.
Dầu sao, vào thời đó, dân ta mà còn theo mẫu hệ đi chăng
nữa, thì vợ chồng vẫn sống chung, chớ không phải trai gái
giao hợp như cầm thú, rồi trai đi mất, để gái lại với cái
thai, theo như sử Tàu đã nói.
Sự kiện giao hợp rồi đi mất là thói của các thứ dân còn ăn
thịt sống ở hang núi, chớ người Lạc Việt đã biết cất nhà
rồi, hơn thế, đã tiến đến nền văn minh đồng-pha (bronze)
thì không thể nào mà có việc "không có tình vợ chồng, tình
cha con, không sống chung, lấy nhau vì dâm tính".
Tạm gác danh từ Cha, ta học qua về động từ Chém. Quan
thoại nói Chàl, Quảng-đông nói Chàm, tiếng Hán Việt là
Tràm. Vậy động từ Chém, chắc chắn là ta mượn của Tàu vì
bốn giọng giống nhau quá.
Ta không có Dao hay sao?
Xem qua kho vũ khí của ta khai quật được ở Đông Sơn thì
quả ta không có món gì để mà chém hết, mà chỉ có những
vũ khí để đâm mà thôi: lưỡi lao bằng đồng để phóng, lưỡi
đoản kiếm, lưỡi rìu. Nhưng nhà bác học V. Gouloubew nói
rằng lưỡi rìu ấy để ném chứ không phải để chặt (arme de jet).
Ta không có vũ khí, không có dụng cụ để chém thì dĩ
nhiên ta không có động từ chém, phải mượn của tiếng Tàu.
Có một lưỡi kiếm bén ở hai bên, mà đó là lưỡi kiếm của
nhà Hán. Người chết trong những cái mồ chứa đựng vũ khí
ở Đông Sơn là quí tộc Lạc Việt vì người ấy có tư trang
bằng ngọc. Chỉ có quí tộc là có chém, nhờ lưỡi kiếm vay
mượn ấy, còn đại đa số dân chúng thì không mà ngôn ngữ
thì lại từ dân chúng mà ra.
Ta không có động từ chém, nhưng ta có danh từ buồm.
Nhiều nhà học giả ta băn khoăn hỏi những chiếc thuyền
khắc chạm trên trống đồng là thuyền đi sông hay đi biển
mà không thấy buồm. Xét qua ngôn ngữ, ta có thể đoán
rằng thuở ấy ta đã biết đi biển, vì ta có danh từ buồm.
Quan-thoại nói Fảl; Quảng-đông nói Fàl; Hán Việt nói
Phàm; nhưng tiếng Việt là Buồm thì chắc chắn là không có
sự vay mượn ở danh từ đó.
Ta đã biết làm ruộng, nên ta đã có danh từ Cơm không
phải Quan-thoại cũng không phải Quảng-đông. Nhưng
chắc là ta chưa biết nấu cháo, y như đồng bào Thượng ở
Kontum ngày nay, họ không hề biết món đó, nếu không có
chung đụng với ta.
Quan-thoại nói Chúa, Quảng-đông nói Chúc, Hán Việt nói
Chúc, tiếng Việt Cháo, rõ ràng do tiếng Tàu mà ra.
Về điểm người Lạc Việt có mặc quần hay không thì ta bối
rối lắm. Hình người khắc ở trống đồng, cho ta thấy họ mặc
một thứ gì bằng lông chim dài từ trên xuống dưới như giáp
của hát bội, mà không thấy quần. Quyển Annam chí
nguyên của Cao Hùng Trưng cũng nói là trước đời Trần
Lê, người mình chưa biết mặc quần.
Nhưng sao ta có danh từ quần mà Quan-thoại nói là fủa,
Quảng-đông nói là fuu, tức danh từ quần của ta không phải mượn của họ.
Xin nhắc lại rằng đừng tưởng rằng ta có thể vay mượn của
các nhóm khác như Mân Việt, Đông Âu, như đã nói ở bài
trước, bởi vào thuở ấy các nhóm đó cũng kém văn minh
như ta và chỉ bị Tàu cai trị trước ta một vài trăm năm thì
chưa đủ khả năng làm thầy của ta đâu. Ta có vay là vay
của Tàu chánh gốc, tức Quan Thoại mà thôi. Phương âm
Quảng-đông chỉ đưa ra để làm chứng vậy thôi. Còn sáng
tạo tiếng mới thì cũng khó có, như đã nói trên kia.
Như vậy, có thể kết luận rằng ta đã biết mặc quần vào thời
hai bà Trưng rồi chăng?
Về cơ-thể-học, ta chỉ biết có xương, máu và ruột mà thôi,
còn tim, gan, phổi đều mượn của Tàu. Điều đó không có gì
lạ. Vương Mãng đã có chiếu cho phép các y sĩ Trung-Hoa
giải-phẫu xác chết để học tức y-học của họ đã tiến bộ rồi
phần nào (theo bác-sĩ Huard), còn ta thì chưa tiến được
như vậy, nên chỉ biết những gì ta tự nhiên mà thấy: máu
chảy khi bị thương, lòi ruột khi bị đâm, và xương cốt
người chết. Phổi, gan, và tim chỉ thấy được nhờ các cuộc
mổ xẻ, chớ tự nhiên không thể thấy ba món đó.
Nhưng có một điểm này lạ lắm là ở bề ngoài, ta có đủ tiếng
cả, không phải vay mượn của Tàu, từ ngón tay, ngón chân
đến da thịt, nhưng tiếng đầu, ta lại mượn của Tàu.
Quan-thoại nói Thủ, Quảng-đông nói Thầu, Hán Việt nói
Thủ, ta nói Đầu. Đầu của ta, chắc chắn là vay mượn.
Nhưng tại sao có sự vay mượn ấy? Trường bợp Đầu giống
hệt trường hợp Bến đã nói ở bài trước tức đó là những vay
mượn khó hiểu vì không lẽ ta lại không có những danh từ
sơ đẳng như vậy, tay, chơn, cổ, ngực, bụng thì có tiếng,
còn đầu lại phải mượn của Tàu.
Những người bạn học tiếng Tàu với chúng tôi nhất định tin
rằng Đầu hơi giống Thủ và Thầu vì ngẫu nhiên trùng họp
chớ không phải vay mượn. Có lẽ đó là vấn đề còn cần phải
học lại mới xong.
Những vay mượn lạ lùng chắc không bao giờ giải đáp
được, nếu không nói bướng rằng đó là sự trùng hợp ngẫu
nhiên, chẳng hạn về màu sắc, ta co đủ cả, đỏ, đen, xanh,
trắng nhưng lại không có màu vàng. Quan-thoại nói Wàng,
Quảng-đông nói Woòng thì Vàng chắc chắn do đó mà ra.
Không lẽ trên lãnh thổ Giao-chỉ vào thời ấy, củ nghệ lại
chưa mọc, mà hễ có nghệ thì dân phải biết màu vàng và
phải có danh từ, tĩnh từ Vàng.
Hợp kim Đồng (bronze) ta cũng mượn của Tàu một cách
kỳ lạ. Các nhà bác học của Viện Bác Cổ Viễn Đông đã
chứng minh được bằng cách phân chất rằng đồ đồng Lạc
Việt là do chính dân Lạc Việt đúc ra, chớ không phải mua
của Tàu, mà đồ đồng ấy, đã tiến qua nhiều thế kỷ rồi chớ
không phải là mới phát minh vào đầu Tây lịch Kỷ nguyên,
vậy mà lại không có danh từ chỉ món hợp kim ấy hay sao,
để đi mượn danh từ đồng của Trung Hoa?
Bến, Đầu, Vàng, Đồng là những tiếng vay mượn không có
lý do, như, chúng tôi đã ám chỉ ở bài trước khi nói về Đùi,
do bọn sính nói tiếng Tàu vay mượn, còn ta thì đã có danh
từ Bắp Vế.
Qua cuộc tìm tòi nhỏ này, ta chỉ biết được có một sự kiện
lịch sử thôi, là nam nữ ta đã sống chung vào thời đó, tức đã
có vợ chồng, và dầu còn theo hệ mẹ, vẫn biết có người cha.
Về thủy vận, ta đã biết dùng buồm, nhưng ăn uống thì còn
kém chưa có món gì để chém thì chắc cũng chưa có món gì
để mà thái cá, thái thịt. Những tiếng chiên, chưng, hấp, xào
toàn là tiếng Tàu, ta chỉ biết luộc, nướng và kho mà thôi.
Ta không biết món cháo, y như đồng bào Thượng ngày
nay. Vả lại Trung Hoa cũng biết cháo trước ta không lâu
lắm. Theo bác sĩ Huard, giáo sư y khoa ở Hà-nội hồi tiền
chiến, tác giả quyển "Y Khoa Trung Hoa" thì môn trị bịnh
bằng cách ăn uống (diététique), chỉ mới xuất hiện ở Trung
Hoa vào cuối đời nhà Chu mà thôi, tức cách nhà Hán chỉ
một triều đại nhà Tần dài không tới trăm năm. Món cháo
không phải là món ăn của người thường mà là món ăn của
người đau ốm vì cháo thuở ấy là cháo trắng, tức cháo hoa,
chớ chưa biết nấu cháo thịt, cháo lòng, cháo cá như về sau.
Mà đừng nói chi cháo nó gần như là một vị thuốc. Cơm,
người Tàu biết cũng không lâu. Họ chỉ biết ăn com khi
nước Sở thành lập, vì lúa gạo không mọc được ở Hoa-bắc,
ở đó họ chỉ trồng lúa mì, làm bánh bao mà ăn cho đến ngày nay.
Thật ra thì người Trung Hoa đã cướp đất Kinh của người
Việt từ đời nhà Hạ. Bọn di cư ấy đã biết cơm từ thuở đó,
nhưng vì không có liên lạc với chánh quốc nên khi nước
Sở mà họ lập ra, hùng cường rồi thì trung ương của Trung
Hoa mới biết cơm. Đó là vào đời Tây Chu.
Cái quần còn là nghi vấn, mặc dầu ta có tiếng quần, bởi
hình ở trống đồng không cho ta thấy cái quần một cách rõ ràng.
Tất cả những động tác sinh lý về Đệ-tam-khoái và Đệ-tứ-
khoái đều là tiếng ta. Về điểm nầy, có một hiện tượng ngộ
nghĩnh lắm. Chúng tôi nói rằng phương ngữ (dialecte) của
các vùng ở Trung Hoa đều biến mất hết, chỉ còn phương
âm (prononciation provinciale) mà thôi, nhưng những
chuyện bí mật sinh lý thì các địa phương còn dùng danh từ
"man di" của họ hồi cổ thời. Triết-giang, Phước-kiến,
Quảng-đông và Việt Nam, mỗi xứ mỗi giữ đúng tiếng cổ
chỉ những việc đó.
Người Trung Hoa đời Hán rất liêm khiết và đạo đức. Họ
bắt các "man di" học đủ thứ, nhưng không dám đá động tới
những cái đó, nên thổ ngữ các vùng mới còn sống sót cho
tới ngày nay. Thí dụ, việc đại tiện, Quảng đông nói là Ói
xỉ, Mân Việt Bắn Xoái, đều không phải do Quan-thoại Tá
Pél mà ra.
Từ nãy giờ, chúng tôi chỉ nói đến những tiếng Việt gốc, do
hay không do tiếng Tàu mà ra.
Nhưng nếu nó không do tiếng Tàu mà ra thì tự nhiên nó
thành hình, hay do ngôn ngữ nào khác? Về điểm đó, chúng
tôi chưa kịp học cho tới nơi, những công trình ngôn ngữ
học của người Pháp cho rằng tiếng Việt có họ hàng với
tiếng Thái cũng chưa chứng minh được gì. Nhưng tiết lộ
sau đây có thể làm quí vị ngẩn ngơ suy nghĩ. Là danh tù
làng của ta là tiếng Mã Lai đấy. Người Mã Lai đọc là T'Làng.
Làng là một tổ chức độc đáo và tối cổ của dân tộc ta thì
danh từ chỉ tố chức ấy, nguồn gốc nó ở đâu, nguồn gốc dân
tộc ta có thể ở đó.
Nhưng có ai tin được rằng dân tộc ta gốc Mã Lai haỵ
không? Không, không ai tin cả. Những sử gia, những nhà
học giả đã nhận càn rằng người Lạc Việt ở Đông Sơn là tổ
tiên của ta, họ nhận xét thiếu tinh thần khoa học, nhận
người Đông Sơn Lạc Việt là tổ tiên ta, nhưng lại không
nhận rằng Lạc Việt là người Anh-đô-nê-diêng mặc dầu
màu sắc Anh-đô-nê-diêng quá rõ rệt nơi các cổ vật. Họ
không nhận vì họ tưởng Anh-đô-nê-diêng dã man lắm, bởi
các nhà học giả Tây-phương thường nói "người mọi" cũng
là "Anh-đô-nê-diêng". Họ xấu hổ mà có tố tiên thất kém đến thế.
Nhưng họ quên mất rằng không phải nhóm Anh-đô-nê-diêng nào cũng chậm tiến như đồng bào Thượng; mặc dầu
đồng chủng nhau mà có thể hai nhóm tiến theo hai nhịp
khác nhau vì điều kiện sinh hoạt khác nhau. Vả lại nếu
cách đây hai ngàn năm mà tổ tiên ta chậm tiến như người
Thượng ngày nay thì đã có gì mà xấu hổ?
Nói tổ tiên ta là Anh-đô-nê-diêng, không ai nhận, giờ nói
tổ tiên ta là Mã Lai, thiên hạ lại còn phản đối hơn, vì Anh-
đô-nê-diêng tuy chậm tiến, nhưng họ hiện còn sống bên
cạnh ta, chứ như người Mã Lai thì ở quá (...mất vài chữ)
... tưởng tượng được rằng một dặm, ở giữa có Chàm, có
Cao Miên mà lại đồng chủng với nhau.
Nhưng chúng tôi xin trình ra lời của nhà địa-lý-học Etienne
Baron: "Anh-đô-nê-diêng là một thuật ngữ chuyên môn
được dùng để chỉ cái chủng tộc thường được gọi nôm na là Mã Lai."
Vậy thì Anh-đô-nê-diêng là Mã Lai chứ không có gì lạ hết.
Nếu vị nào không nhận tổ tiên ta là Anh-đô-nê-diêng, hẳn
cũng sẽ không nhận tổ tiên ta là Mã Lai. Nhưng, nếu
chứng minh được rằng trong xã hội Việt Nam ngày nay,
còn rơi rớt lại rất nhiều di tích Mã Lai, thì chắc không ai
còn có thể chối cãi gì được nữa cả.
Những di tích ấy là những khoen trung gian mà phương
pháp khoa học đòi hỏi, những cái khoen minh họa sự biến
chuyển của nền văn hóa Mã Lai của Lạc Việt thành ra nền
văn hóa của Việt Nam, nhuốm màu sắc Trung Hoa.
Danh từ làng của ta và t'làng của Mã Lai là một trong
những khoen trung gian ấy. Đây là một tờ tạp chí chuyên
nghiệp về văn học, nên chúng tôi chỉ có thể trình bày khía
cạnh ngôn ngữ mà thôi, nhưng còn không biết bao nhiêu
cái khoen trung gian lối đó, nó làm cho phái phủ nhận tổ
tiên ta là Lạc Việt phải soát lại quan niệm của mình và
phải nhận càn, không đưa được chứng tích, sẽ được ở yên
trong sự nhìn nhận của họ, mặc dầu họ đã nhận mà không
tìm tòi theo sự đòi hỏi của phương pháp khoa học.
Xin nói rõ một điều là danh xưng Mã tai không phải là
tiếng Tàu hay tiếng ta, mà là danh từ của dân Mã Lai, được
Tàu, ta và Tây phiên âm để đọc.