• Đối Ảnh Thương Về • Dâng • Khuya • Viễn ảnh
• Ngày em xõa tóc • Sinh nhật • Bài trong nhật ký
• Vi lô • Rừng • Thu ca • Từ trang nhật ký
• Vang Bóng • Bối Cảnh • Thu Ơi, Từ Đó...
• Giòng Nhớ Thương Chảy Mãi Qua Hồn
• Trời Xưa Áo Lục • Gặp Lại Vũ Hữu Định • Vọng Tình Chim
Đôi mắt em như hạt nhãn lồng
Tóc buông dài lạc mấy nguồn sông
Duyên cười rạng ánh trăng mười sáu
Vườn nắng xuân xa ửng má hồng
Thuở ấy con đường chưa hắt hiu
Trời xanh chưa vướng sắc mây chiều
Mùa xuân còn rất nhiều hoa bướm
Tình vẫn đầy trong nét chữ yêu
Tà áo em pha màu non xưa
Bay bay theo ý gió sang mùa
Bên nhau đứng lặng trên đồi cỏ
Nhìn giải sông quanh đẹp chẳng ngờ
Ngày bỗng dưng buồn, khi bóng mây
Che ngang trời mộng chiều thu gầy
Những ai gục xuống ôm lòng đất
Những kẻ tràn lên súng chắc tay
Lớp lớp người đi cuốn một người
Tình trai chợt tỉnh giấc xuân vơi
Có nghe tiếng máu xao nguồn sử
Mùa-xoá-đêm-nâu-dựng-mặt-trời
Áo đẫm trăng rừng, tóc đẫm sương
Mắt cay khói ngút chiều sa trường
Đèo cao khuất hướng vườn xuân cũ
Đã mấy mùa hoa tủi sắc hương
Chiếc ảnh người xa năm tháng xa
Tiễn đưa, nầy vết lệ xưa nhoà
Từng đêm đối ảnh buồn không nói
Hiu hắt rừng khuya gió thoảng qua
Lặng lẽ nhìn nhau lời nghẹn lời
Nguồn sông, đồi cỏ, tuổi thơ ơi
Hỡi em, màu mắt hồ xanh cũ
Còn bóng thuyền mơ tếch viễn khơi?
Thơ Tình Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Thưa, bài tình ca chưa xong
Đêm đêm gác gió còn chong ngọn đèn
Ngỏ lời vĩnh biệt không quen
Nên trang tuyệt bút còn chen ý sầu
Hẹn về kể chuyện xưa sau
Mà e lối có thu dàu dau phai
Nợ rừng mấy lứa măng mai
Nợ quê hương trả tình hoài mười năm
Nợ em phí tuổi trăng rằm
Vào đời trót nhận thân tằm nợ dâu
Từ đi qua mấy nhịp cầu
Thưa, lòng tôi vẫn nuối màu trời thơ
Tôi là tôi của bây giờ
Vẫn là tội của em chờ ngày xa
Đêm, tìm đâu tiếng chim ca
Giòng trăng lạnh rớt sương nhòa mấy phương
Đèn lay chao bóng khung tường
Khuya vơi chim mộng lạc đường bay sang
Trang thơ lồng nét thu vàng
Đành trao em với hai bàn tay dâng.
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Sương buồn đẫm lạnh trời khuya
Thời gian câm nín, bốn bề tịch liêu
Bầy sao vừa rụng sau đèo
Suối khan nhạc đá tiễn chiều quá quan
Gối tay mà nhớ thương tràn
Màu trăng châu thổ, điệu đàn đế kinh
Tiền thân vướng nợ đăng trình
Đường xa lủi thủi một mình mãi ru ?
Muốn về nhưng biết về đâu
Công danh lở dở, nhịp cầu chênh vênh
Sóng chưa lặng, chửa quay thuyền
Ngửa bàn tay thả cái duyên buổi đầu
Còn nghe cá nước thương nhau
Nửa hoài nhân ảnh, nửa đau thế tình
Chút lòng xin gửi đài vinh
Đời sao cứ dựng trường đình tiễn đưa ?
Nằm mơ giấc ngủ mùa xưa
Đâu đây dường có âm thừa mẹ ru.
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Tôi về xin giấc ngủ yên
Giữa đêm trăng dãi giữa miền cô đơn
Năm năm mộng biếc chập chờn
Bút hoa khôn lấp nỗi hờn trắng tay
Bây giờ tôi gặp tôi đây
Lòng sông Thu vẫn lồng mây bốn mùa
Xin thôi tính được và thua
Chắt chiu vốn cũ dành mua tiếng chiều
Tôi về tôi mến tôi yêu
Thoáng sương màu cỏ quê nghèo quen thân
Con đường thêm những dấu chân
Nỗi vui thao thức đầy sân nắng vàng
Tôi xin giấc ngủ muộn màng
Không vương mộng mị những hoàng hôn xa.
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Ngày em xõa tóc làm mây
Con chim xứ lạ ngừng bay lạc đàn
Đây trời thơm nức hương lan
Bóng em trong bóng chiều loang nhẹ buồn
Ngày em xõa tóc làm nguồn
Quay thuyền, du tử rong buồm về xuôi
Giòng xanh trắng nước đầy vơi
Chèo khua sóng liễu giữa vời tìm thơ
Ngày em xõa tóc đợi chờ
Phương xa giăng kín nét mờ ải quan
Cung thương xao xác hồn đàn
Sáu dây buốt lạnh sương ngàn vào khuya
Chừng như năm ngoái năm kia
Sầu chân phổ thị còn chia dặm ngoài ?
Tóc em lên bậc trang đài
Nguồn mây xưa cuốn tình ai xuống mồ
Rừng mùa đau tiếng "hít-cô"
Có người tiếp mộng sông hồ vì em.
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Người con trai ấy lớn lên
Hồn gươm chiến quốc đè trên cuộc đời
Buồn trông vật đổi sao dời
Mười lăm năm sóng trùng khơi vẫn gào
Mây đèo thác núi xôn xao
Tay gươm tay súng tay nào vẫy em
Xa chiều trăng rụng bên thềm
Vàng bay ngõ cũ đau niềm từ ly
Người con trai ấy ra đi
Phong ba nếp trán hàng mi lạnh lùng
Ngẩn ngơ nhập tiệc quân hùng
Gió lay thức mộng lửa bùng cháy thơ
Hỏi bây giờ là bao giờ
Mắt cay còn vướng sương mờ biển dâu
Lời câm ngăn tiếng nguyện cầu
Tóc bồng xưa đã phai màu tuổi xanh
12-12-1962
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Tháng hai từ biệt kinh thành
Tàu rời ga Huế đưa mình vào Nam
Sớm mùa sương muối căm căm
Người đi quên hẹn về thăm kẻ chờ
Trời xa thỏa cánh chim thơ
Năm năm quân trấn bên bờ Tiền giang
Tiếng gà rơi mỗi trưa vàng
Trưa trưa lại nhớ bóng làng, bóng em
Bây giờ mùa ngát hoa sim
Màu rưng rức tím khơi niềm từ ly
Nẻo cao ngợp gió biên thùy
Tình thơ giáp một chu kỳ nhớ nhung
Ngàn cây ngàn cây trùng trùng
Lửa rừng khuya lửa bập bùng trăng đêm
Buồn hoang như núi không tên
Suối xuôi đường suối, mình lên ngả nào ?
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Vi lô rạp gió đôi bờ
Thuyền xuôi chở nỗi sầu thơ nặng thuyền
Qua mùa bấc động truân chuyên
Với đau sóng bạt với phiền lênh đênh
Đã qua nhiều bến không tên
Trăng lang thang rải buồn lên giang đầu
Dặm dài gió cuốn mua mau
Rưng rưng cát bãi xanh màu trời xanh
Buồm nâu cánh nhỏ mong manh
Lứa xuân hồn trúc thôi đành chia xa
Về nghe châu thổ reo ca
Thuyền chao thuyền lướt thuyền qua mấy bờ
Trung du choàng áo thu mờ
Mùa sương khói nhắc mùa thơ hỡi lòng
Viền mi núi biếc che vòng
Tiếng nguồn dứt gọi đầu giòng quanh quanh
Bỏ sông vào chuyến hải hành
Đã nghe hồn sóng cầm canh đợi chờ
Phiên đài khắc khoải đêm thơ
Vi lô ngơ ngác đôi bờ vọng theo.
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Lối mờ mất hút trong cây
Mưa gieo từ những cánh mây cuối mùa
Đường lên thác vọng bâng quơ
Không run rẩy bước mà ngơ ngẩn hồn
Thấy mình như đá cô đơn
Buồn vương nắng cuối chiều phơn phớt vàng
Con chim lạ vút qua ngàn
Bỏ sau núi cũ mấy hoàng hôn xưa ?
Thêm đầy ảo ảnh cho thơ
Lạc nhau hỏi đến bao giờ hỡi ai ?
Ngày vơi trong ý thu dài
Màu trăng châu thổ phai ngoài dặm quanh...
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Tôi ru tôi ngủ bằng thơ
Bằng hương tóc thuở tôi chờ tháng năm
Thông reo hay tiếng phong cầm
Trông mây tôi tưởng bềnh bồng võng đưa
Đưa đưa... hồn nhỏ sang bờ
Giòng sông thương nhớ vẫn lờ đờ trôi
Từ mùa nhân ảnh lên ngôi
Tôi quên mình đã xa xôi dặm về
Quên mình đang thức hay mê
Liềm trăng khuya mộng treo kề đầu non
Phương ngoài ngựa nản chân bon
Mang mang ý gió lay hồn thảo nguyên
Buồn lên tiếng hát duyên biên
Cánh chim mùa cũ qua miền hoang sơ
Mời em dừng lại bên bờ
Mưa vây nguồn thẳm, thu mờ cuối sông.
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Giơ tay vẫy biệt Sài gòn
Chiều Đa Kao nắng vây buồn ngõ xa
Đường lên phi cảng bụi nhòa
Phố quen nào có mái nhà ai quen
Trời chiều nay lắm mây đen
Mình đi gác nhỏ cài then đợi chờ
Bỏ mươi thằng bạn làm thơ
Bỏ chiều thứ bảy bên bờ sông xanh
Đời bao nhiêu chuyện đăng trình
Vẫn chưa nhủ được lòng mình dửng dưng
Không xa, chắc bước ngập ngừng
Biết đâu – vâng, biết đâu chừng không đi ?
Một thương màu áo kinh kỳ,
Hai thương nét chữ xuân thì gửi nhau
Ba thương phố nhỏ bên cầu
Khuya sương ray rứt còi tàu vọng âm
Ngày mai dặm cát xa xăm
Tâm tư chừng đã lên mầm nhớ nhung
Với ai mà hẹn tạo phùng
Tưởng qua rồi chuyến sau cùng, lại đi.
Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008
Tủ Sách Di Sản Văn Học Miền Nam
Ở đó còn chăng tháng giêng mưa bụi
Tiếng trống chầu hát bộ lễ kỳ yên
Đường bên sông phất phơ tà áo mới
Phấn mưa cài óng ả lụa Duy Xuyên
Chim chào mào còn tụ về xóm dưới
Hàng trăm con chia những trái thơm vàng
Ta đứa trẻ của ngày xưa - đắm đuối
Ngước nhìn chim mỗi sớm đến trường làng
Mẹ còn đứng góc sân đầu hướng gió
Nghiêng nghiêng người giê sạch lúa ba trăng
Luồng bụi tóc rơi đầy trên lối cỏ
Vườn quanh nhà rơm mới trải dăng dăng
Con tu hú kêu khan trên ngọn gạo
Lũy tre chiều vi vút gió nồm reo
Gió thổi mạnh, bắp triền say lảo đảo
Và ngàn dâu cũng chuếnh choáng say theo
Em Mỹ Lược còn đợi đò Trung Phước
Anh quá giang ghé lại bến Thu Bồn
Ai xuôi phố, ai rẽ vào Chợ Được
Nước chung giòng sông Cái tiếp sông Con
Còn chăng nhỉ, hỡi Thi Lai, Hà Mật
Hỡi Xuân Đài rộn rã tiếng xa quay
Giao Thủy ơi, vẫn còn hay đã mất
Huồng tơ vàng ướm đẹp những bàn tay
Thuyền nhung nhớ xuôi theo giòng Câu Nhi
Đêm thanh bình vằng vặc mảnh trăng xưa
Thuyền ai trôi, giọng ai hò tuyệt kỹ
Chuyển âm buồn, thoáng chốc tưởng sa mưa
Mua sa mãi từ thu nào sấm dậy
Bao người đi hoài vọng một phương về
Đất Ngũ Phụng qua mấy mùa máu chảy
Xin trở mình nghe khúc hát thương quê.
Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến, Tập I
Tủ sách Di Sản văn chương miền Nam, Thư Ấn Quán Tái Bản 2007
Một mình ta uống rượu
trời nghiêng nghiêng mưa thưa
nhẩm từng tên bằng hữu
mất nhiều khuôn mặt xưa
Ta lặng yên từ buổi
lảo đảo lìa chiến trường
ngựa què lê bước mỏi
khó trọn chuyến hành hương
Em qua mùa sầu mộng
ta khép trời si mê
dại khờ nên ước vọng
xoá hộ nhau lời thề
Hơn một lần quay mặt
đổ cho ai bây giờ?
làm sao ta dám chắc
lạnh lùng em trong mơ?
Tình ơi ngoan giấc ngủ
hồn giạt nhánh sông xa
trăng chưa vàng ngõ cũ
sầu rơi theo mưa sa.
Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến, Tập I
Tủ sách Di Sản văn chương miền Nam, Thư Ấn Quán Tái Bản 2007
Anh mất mùa thu, mất cả em
Lạc nhau từ buổi mới vừa quen
Trùng trùng dâu biển đau hồn bút
Đêm mịt mù sương, lụn ánh đèn
Ước hẹn đầu đời: thu của thơ
Chờ mùa lá rụng, đợi trăng mờ
Và em kiều diễm xanh tình sử
Mười ngón tài hoa góp tiếng tơ.
Chưa đáp tình thu, lửa đã tràn
Một trời thu mộng, một trời tang
Anh lê bước dưới mưa chiều loạn
Tay bút nhường tay súng ngỡ ngàng
Giòng tóc mây xa kết nhánh sầu
Với bao nhiêu lệ mắt bồ câu ?
Lửa vây có nám bàn tay đẹp,
Môi-đóa-hồng xưa có đổi màu ?
Không đợi gì thu lá cũng vàng
Những vườn tiêu thổ, núi khai quang
Anh ngơ ngác với thân bèo bọt
Giữa đại dương nhầu sóng hỗn mang.
Từ đó người im tiếng gọi người
Cõi nào em nhỉ lá còn tươi ?
Mùa nào không gặp mùa thu chết
Mưa rơi sao buồn hơn máu rơi
Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến, Tập I
Tủ sách Di Sản văn chương miền Nam, Thư Ấn Quán Tái Bản 2007
Tôi nghĩ về một giòng sông
Giòng sông quê hương có đôi bờ đất mật
Có những tên làng tôi yêu mến nhất
Có triền xanh, gành xám, bãi vàng
Những hàng cừ xe gió nước reo vang
Những thác xiết nhọc nhằn thuyền lên ngược
Nguồn hai ngã, lòng sông chung guồng nước
Khúc cạn, khúc sâu, phía lở, phía bồi
Sông Thu Bồn thương nhớ của ta ơi!
Nhà tôi ở bên bờ sông đó
Mùa bấc, mùa nồm sông lồng lộng gió
Hàng tre, vườn chuối xiêu xiêu
Chiều nhẹ nâng cao vút cánh diều
Nắng phớt lưng sườn núi tím
Tháng tám nguồn về trái bòn bon ngọt lịm
Ghe biển đưa lên con nục, con sòng
Bè gỗ lềnh bềnh, đủng đỉnh xuôi sông
Trên bãi sớm, bủa tằm nghiêng hửng nắng
Điệu hát chèo ghe trong đêm bình lặng
Tỏa ân tình thêm mát ánh trăng khuya...
Một thuở đạo binh
Nguồn, biển chia lìa
Sông cau mặt vì bóng cờ ba sắc
Ròng rã chín năm, nước sông hòa nước mắt
Giòng thương đau đưa tiễn những thây người
Sông hiền lành chuyển động, sóng trào sôi
Người đứng dậy giành những gì sắp mất
Lửa tiếp lửa, lửa tràn lan, cao ngất
Tro đồn Tây xám xịt nước sông thơ
Tay chị tay anh giữ vững đôi bờ
Dầu bát ngát, lô xô cờ bắp trắng
Sông lấp lánh một trời mai đẹp nắng
Buồm gió căng lên, phơi phới giọng hò...
Ngấn lệ mừng trên mắt mẹ chưa khô
Chưa cào hết vụn bê-tông đồn giặc
Trên đôi bờ sông
để tìm lại đất
Cho tay người tái tạo những mùa xanh
Trời quê hương lại ngút lửa chiến tranh
Bờ sông xẻ thành hào ngang, lũy dọc
Măng vừa nhú, mảnh gang lia sát gốc
Cau rạp mình, la liệt xác ngàn dâu
Những rặng thùy dương trụi lá, cụt đầu
Nguồn tới biển: hai vành đai trắng!
Tiếng dệt cửi từ lâu im vắng
Về đâu người em gái Duy Xuyên?
Có nhớ sông quê hãy phác lời nguyền
Với bông vải ba-châu
Với nong tằm, búa kén
Với bắp, với dâu, với mùa ước hẹn
Tất cả vươn lên góp lửa nhiệt thành
Trả lại giòng sông, trả lại cho anh
Từng vết bàn chân trên cát vàng tuổi nhỏ...
Ai có về bên bờ sông đó
Đếm giùm tôi bao bến nước vắng thuyền
Còn sót đọt tre nào chấm mặt thủy triều lên
Mấy độ trăng tròn, trăng khuyết
Giòng sông trôi giòng sông trôi biền biệt
Giòng nhớ thương chảy mãi qua hồn!
Ơi Thu Bồn, tôi biết nói gì hơn!
Văn Học Miền Nam, Thơ (Võ Phiến)
Hãy chậm chân bon hỡi ngựa hồng
Lối về chừng đã tới bên sông
Quán xưa khói nhạt, đò sang bến
Lau trắng bờ xa run gió đông.
Khách ngẩng đầu lên thương núi xanh
Đỉnh mây ngàn thuở vọng nhận hành
Người đi núi lặng nhìn theo bóng
Ngựa vượt đèo cao vó cuốn nhanh.
Kiếm thép xưa mài đá núi thiêng
Trăng thu, suối bạc chứng cầu nguyền
Hỡi ơi, kiếm gãy sa trường loạn
Nhịp trống tiền doanh cũng lặng yên.
Giữa trận đòi phen ngất ngưởng say
– Địch nhân, mời cạn chung bầu này
Giết nhau, ồ thiếu chi hồi giết
Chuyện dễ dàng hơn bữa rượu cay.
Vứt kiếm, buông cung, khách trở về
Bàng hoàng như trải một cơn mê
Phiến mây cố quận ngàn xa gợi
Một cõi thơ và một bóng quê.
Chiến mã rung bờm nghe bắc phương
Mùa đưa tin gió siết canh trường
Quay đầu, vó sải theo đường cũ
Tung bụi mù tro lửa nhiễu nhương.
Giáp trụ, cân đai nặng mấy phần
Thay bằng màu áo lục thi nhân
Cỏ êm êm dưới chân giày cỏ
Bảng lảng chiều vương điệu trúc ngân.
Gọi chính mình xưa: chinh khách ơi!
Có hay trăng đợi với thơ mời?
Đáy ly chìm một trời mơ ước
Đùa mặt hồ nghiêm, chiếc lá rơi...
(Tạp chí Bách Khoa)
Văn Học Miền Nam, Thơ (Võ Phiến)
Như con chim vào Nam tìm nắng ấm
Ròng rã mười năm tôi biệt miền Trung
Ải Vân ơi! thương nhớ đã không cùng
Ðèo quanh quất mây lưng chừng vách núi
Huế kỷ niệm có người em thành nội
Còn đợi đổ đò thừa phủ ngóng ai xa
Sóng liễu Hương Giang lộng ánh trăng ngà
Ðêm Bến Ngự sầu thơ buồn gác trọ
Ðất Quảng thân yêu, một thời tuổi nhỏ
Mẹ thèm cơm, con thiếu áo long đong
Nhà bên sông năm tháng nước xuôi dòng
Vách nứa lung lay trưa nồm thổi mạnh
Bếp lửa sàn khó ngăn chiều bốc lạnh
Chiếu chăn nào xua nổi rét khuya đông
Bao mồ hôi của mẹ tưới trên đồng
Thân lúa vẫn như thân người thiếu máu...
Buổi tôi về thăm quê hương yêu dấu
Tang-mùa-đông lạnh lẽo nước sông Hàn
Ơi Thu Bồn, Cẩm Lệ, ơi Thương Giang
Sông lịch sử lại đi vào thảm sử
Tôi trở lại với niềm đau cố xứ
Bến sông chiều Vĩnh Ðiện hắt hiu mưa
Muốn đi lên nhưng súng vọng đôi bờ
Nguồn với biển trở thành xa cách quá
Mẹ trên kia giữa ngày đông tháng giá
Giữa hoang tàn đổ nát, giữa nguy cơ
Thấy gì đâu chỉ núi chắn mây mờ
Lòng gọi mãi tên làng xưa Trung Phước!
Muốn ra Huế thăm người em thuở trước
Ðèo Ải Vân đã lấp nước trôi cầu
Tôi hỏi mình rất khẽ: ta về đâu?
Và run rẩy đông này sao lạnh thế
Không gặp mẹ. Vẫn xa người xứ Huế
Lại lên đường như một cánh chim hoang
Ðã mười năm chưa mỏi bước lang thang
Bước có mỏi chân muốn dừng chưa được
Tôi hiện hữu phải bèo mây kiếp trước?
Tạp chí Bách Khoa
Văn Học Miền Nam, Thơ (Võ Phiến)