30-11-2012 | VĂN HỌC
Dương Quảng Hàm, Mùa Đông '46
Trong trận đánh Hà Nội từ 19.12.1946 và kéo dài hai tháng giữa 8000 Tự vệ
thành (không có chính qui CS) và 4500 quân Pháp, người Pháp chết và bị
thương 3800, ta chết vô số kể, trong đó có Giáo sư Dương Quảng Hàm.
Ông chết như thế nào? "mất," "mất tích," "chết trong đám cháy," Pháp giết
hay "bị CS ám hại" vì ông là Việt Quốc?
 Giáo sư Dương Quảng Hàm (1898-1946)
Cuối năm 2002 và đầu năm 2003,
quanh cuộc trao đổi qua các bài viết về
Hồ Xuân Hương trên Khởi Hành, một
tác giả ở Paris đã nhắc tới Hoàng
Xuân Hãn, và viết đại ý ông Hãn là
"bậc thầy của trí thức Việt Nam thế kỷ
XX," và dĩ nhiên; nhận xét ấy đã bị bài
bác không thể chống đỡ. Bên lề cuộc
trao đổi, có một ý kiến khác đưa ra, là
nếu muốn nói đến một bậc thầy mà
sách trước tác ảnh hưởng tới nhiều thế
hệ thanh niên trí thức Việt trong thế
kỷ XX, ít nhất là trong lãnh vực văn
học, thì người ấy là giáo sư Dương Quảng Hàm.
Từ thập niên '40 tới nay, có thế hệ
thanh niên nào không học hỏi Dương
Quảng Hàm qua cuốn Việt Nam Văn
học sử yếu, Văn học Việt Nam hay Việt
Nam Thi Văn hợp tuyển? Trong các
cuốn trên, cuốn sử yếu in lần đầu năm
1943. Tại Miền Nam sau 1954, cuốn
sách trên là căn bản cho các giáo trình
sách giáo khoa chính thức bậc Trung
học, in đi in lại nhiều lần. Tới 1975,
không rõ có bao nhiêu triệu người đã
học hỏi từ cuốn sách ấy. Ra khỏi lớp
học, vào đời, nếu đi dạy học hay bước
vào nghề văn học, người ta lại cần tới
sách vở của Dương Quảng Hàm một
lần nữa, lần này lâu cả chục năm. Song
người ta học hỏi từ sách ông, tra cứu
sách ông bất cứ khi nào, mà hỏi về
cuộc đời ông thì chẳng mấy ai biết
được gì, chưa nói tới chuyện biết cho rõ ràng.
Những năm qua lục tìm tài liệu về
Dương Quảng Hàm, có kẻ bâng
khuâng, buồn bực. Một người để lại
những tác phẩm lớn lao và căn bản về
văn học sử Việt Nam như ông, mà hầu
như không thấy ở đâu nói đến. Hay
nếu có, chỉ là những nét sơ sài. Tác
phẩm ông lớn lao vì nhiều nguyên do,
trong có nguyên do mãi năm 1943 nước
ta mới có bộ văn học sử đầu tiên, và
ông là người biên soạn bộ sách đầu tiên
ấy. Ông biết rõ điều đó khi viết:
"Ai cũng biết rằng hiện nay không có
quyển sách nào chép về văn học lịch sử
nước ta, không nói gì những sách
tham-khảo tinh-tường cho các học-giả
dùng, ngay đến những sách tóm tắt các
đại-cương cho học-sinh dùng cũng không có." (1)
Đặt tầm sách quan trọng như thế
nên khi soạn sách, ông theo "những
phép-tắc soạn sách" riêng của mình,
nhưng cũng là những khuôn vàng
thước ngọc mà ông kể ra như sau:
- "hết sức cẩn thận... điều gì xác-
thực, chắc chắn mới chép... lấy sự thực
làm trọng"
- "mỗi việc quan-trọng kể ra, mỗi
cái chứng cớ dẫn ra, thường có chua rõ
xuất-xứ"
- "Việc học văn-học-sử phải căn cứ
vào các tác phẩm: ... không những cần
biết những điều cốt-yếu về thân-thế và
văn-nghiệp của mỗi tác-giả, lại cần đọc
nhiều thơ văn của tác-giả ấy mới có thể
lĩnh-hội được cái khuynh-hướng về tư-
tưởng và cái đặc-sắc của văn-từ của
tác giả ấy."
- "chú-thích kỹ-lưỡng"
- "lấy sự minh-bạch làm trọng." (1)
...
Nhưng không phải vì ít tài liệu về
Dương Quảng Hàm mà rồi không viết
về ông, cho nên có người cho rằng cứ
phải viết, biết đâu tài liệu sẽ tới; như
trong đêm khuya tĩnh mịch, vẳng nghe
một điệu sầu trong gió, im lặng mà
nghe, sẽ thấy xa xa vọng lại một âm
hưởng hòa nhịp nào đó, cho dù rất đỗi
mơ hồ. Vì sao trong những đêm trăng,
ta thường nghe tiếng hạc vàng? Có khi
cuối đường tuyệt lộ, ai ngờ lại gặp tri âm?
Không phải tự dưng số báo tháng 12
này viết về giáo sư Dương. Tháng 12
năm 1946, đêm 19, Hà Nội nổ súng
đánh Pháp vào lúc 20 giờ, và trong
trận đánh ấy, hay ngay trong đêm ấy,
có thể trong ngày và đêm sau, trên các
con đường của kinh thành, những góc
phố của thủ đô, trong khói lửa mù trời,
Dương Quảng Hàm đã "mất tích." Từ
điển Tác gia Việt Nam viết: "Ông mất
tích tại Hà Nội trong những ngày đầu
toàn quốc kháng chiến." Từ điển nhân
vật lịch sử Việt Nam, cũng một tác giả
soạn, hai tháng sau, không dùng chữ
"mất tích" nữa. Chỉ viết là ông "mất."
Có một sự cân nhắc nào, và tại sao,
Cục xuất bản trong bộ Văn hoá Thông
tin tại Hà Nội lại phải can thiệp để tác
giả viết khác đi như thế? Từ mất tích
đến mất, cái tích kia là thế nào? Có
chỗ khác lại nói ông bị Pháp giết.
Từ ngày "toàn quốc kháng chiến"
19.12.1946 tới nay, đã gần 60 năm,
trong có 31 năm hoà bình. Lẽ ra với
thời gian ấy, sách vở nghiên cứu văn
học ít nhất đã phải có một bài về
những tháng ngày cuối cùng của nhà
biên khảo tên tuổi nhất trong ngành.
Tới nay chúng tôi chưa thấy.
Tại Sài gòn năm 1966 giáo sư Phạm
Thế Ngũ viết về cuốn Việt Nam Văn
học sử yếu của Dương Quảng Hàm chỉ
có đúng mười dòng, trong có mấy dòng
này: "Tuy nhiên bộ sách xuất hiện vào
1943 có thể coi như tổng hợp tất cả
những gì đã thâu lượm được sau mấy
chục năm người ta để ý nghiên cứu văn
chương và chế độ nước nhà. Đó cũng là
bộ Văn học sử đầu tiên hoàn bị, chép
từ khởi thủy đến hiện đại." (2)
  
Trong những cuốn sách viết về Lịch
sử việt Nam, bộ Việt Nam Sử Lược của
Trần Trọng Kim soạn từ 1920 in từ
năm 1928 (3) vẫn là bộ sách địa bàn;
còn bên ngành nghiên cứu văn học sử,
đó là bộ Việt Nam Văn học sử yếu của
Dương Quảng Hàm, soạn xong năm
1941. Bên cạnh còn có Việt Nam thi
văn hợp tuyển (1942), trước đó là Quốc
văn trích diễm (1926) và Văn Học Việt
Nam (1939). Ông còn dịch Lục Vân
Tiên và có vài tác phẩm viết bằng Pháp
ngữ: Lecons d'Histoire d'Annam,
Lectures litteraires sur l'Indochine.
Ông viết không nhiều vì đời ông quá ngắn.
Ngoài sự thẩm định bác học chúng
tôi không dám bàn, Dương Quảng Hàm
phân tích thi-nghệ, phép-tắc các thể
văn, âm điệu, thi luật, từ cổ phong cho
tới thơ Đường, thơ mới, một cách chuẩn
xác chưa từng thấy nơi những nhà phê
bình văn học Việt từ trước đến nay. Ta
thường nghe nói hay thường đọc là
tiếng Việt có năm dấu (sắc huyền hỏi
ngã nặng), cùng chữ không dấu, cộng là
sáu thanh, song Dương Quảng Hàm
viết là có tám thanh. Ông giải thích:
"... nếu ta so sánh tiếng tính với tiếng
tích, tiếng tịnh với tiếng tịch, thì ta
thấy tuy hai tiếng trên cùng một dấu
sắc, hai tiếng dưới cùng một dấu nặng,
mà thanh khác hẳn nhau, bởi vậy ta
cần phải phân biệt ra... những chữ như
tính, tịnh là thuộc về khứ thanh, mà
những tiếng như tích tịch là thuộc về nhập thanh." (4)
Về vần, ông cũng giải thích thế nào
là vần chính, thế nào là vần thông. Khi
bàn về vè, ông tìm ra luật bằng trắc
trong vè Việt Nam. Khi bàn về thơ
mới, ông đem thơ Pháp ra giảng về
cách hiệp-vần, vần dương và vần âm
như thế nào.
Khi bàn về tiết-tấu trong thơ, lúc
sách xuất bản là năm 1939, giáo sư
Dương Quảng Hàm dùng một ký hiệu
mà qua thế kỷ XXI, một nhà thơ di-tản
ở quận Cam đem ra áp dụng, hơn 60
năm sau, có nhiều vị chủ bút báo khen
là tân kỳ. Ông viết: "Nay các nhà làm
thơ mới phỏng theo cách ngắt câu ở thơ
Pháp mà tùy theo tình ý trong bài ngắt
câu thành những đoạn dài ngắn khác
nhau, không theo lệ định trước. Lại
dùng lối đem xuống đầu câu dưới một
vài chữ làm lọn nghĩa câu trên (rejet ou
enjambement) để làm cho người đọc
phải chú ý đến mấy chữ ấy". Thí dụ
[dưới đây bản chụp, không đánh máy lại]:
 THẾ LỮ. Bóng mây sầu, 7 câu đầu (Phong Hóa, số 100, trang 3) (4)
Xem thế, giáo sư Dương Quảng Hàm
nắm vững thi-nghệ còn hơn nhiều nhà
thơ hiện-đại.
Ông Dương Quảng Hàm sinh ngày
15.1.1898, quê làng Phú Thị, tổng Mễ
Sở, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên,
năm 1920 tốt nghiệp trường Cao đẳng
Sư phạm Hà Nội, sau đó dạy học tại
trường Bưởi (Chu Văn An sau này).
Ông là em ruột nhà thơ Dương Bá Trạc,
và cả hai anh em đều chết trẻ? Dương
Bá Trạc từng cùng Phan Chu Trinh
hoạt động cách mạng, vào mật khu Yên
Thế mưu sự với Hoàng Hoa Thám, sau
bị Nhật bắt đem đày ở Singapore và
chết tại đó năm 1944; (5) còn Dương
Quảng Hàm "mất tích" sau cuộc nổ
súng đánh Pháp đêm 19.12.1946 tại Hà
Nội như đã nói. Cuộc nổ súng tại Hà
Nội chỉ kết liễu hai tháng sau, còn cuộc
chiến tranh Việt Pháp sẽ kéo dài từ đó
tới tận 1954.
Có nguồn tin do một người bạn kể lại
- kể rằng theo một bài báo Việt cộng -,
đêm nổ súng, ông Dương thấy nhà
mình cháy, vì "tiếc sách" trong nhà nên
chạy vào cứu, và chết cháy trong đó.
Nhưng theo nguồn tin gia đình ông, thì
cái chết của ông không thể hiểu như
thế. Cái chết của ông, cũng như cái chết
của các trí thức quốc gia yêu tiếng Việt,
văn hoá Việt khác, như Phạm Quỳnh,
Khái Hưng, Nguyễn Cát Tường (họa sĩ
Le Mur)... là do bị ám hại.
Tác giả bộ văn học sử đầu tiên của
nước ta, từ văn chương truyền khẩu tới
hiện đại -(dù là bộ sách ghi trên bìa
"hiệu-đính theo chương trình bậc trung
học," song theo tư kiến- người viết bài
này chưa thấy một bộ văn-học-sử Việt
Nam nào bác-học hơn; và phân tích kỹ
thuật tinh tế hơn); không chỉ là một
nhà biên khảo chân chính, ông còn là
một nhà hoạt động cách mạng trong
Việt Nam Quốc Dân Đảng, con nuôi
một nhà cách mạng tên tuổi là cụ Phan
Chu Trinh. Anh ruột ông là Dương Bá
Trạc, cũng là con nuôi cụ Phan Chu
Trinh. Thực tế, hai anh em gọi cụ Phan
là cậu ruột. Trong khi Phan Chu Trinh,
Dương Bá Trạc bôn ba việc nước, từ
Quang Phục hội tới Đông Du, thì Dương
Quảng Hàm hoạt động với các đồng chí
Việt Quốc. Và đã bao nhiêu thanh niên
Việt Quốc, Việt Cách, -hay thuộc các
đảng phái quốc gia khác- bị cộng sản
ám hại trong bóng tối, thủ tiêu giữa
đường khuya, và tàn sát giữa ban ngày
trong giai đoạn từ lúc Việt Minh cướp
chính quyền 19.8.45, qua Chính phủ
Liên hiệp (quốc cộng), tới ngày chiến
tranh Việt Pháp bùng nổ, 19.12.46, và
sau đó. Dương Quảng Hàm ngã xuống
trong thời kỳ này.
Không ai viết ngắn gọn và chi tiết
hơn Hoàng Văn Chí về giai đoạn đó như sau:
"Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Việt-
Minh cướp chính quyền ở Hà Nội. Vì
Nhật đã đầu hàng Đồng-minh từ năm
hôm trước nên bỏ ngỏ thành phố không
can thiệp. Việt-Minh chỉ biểu tình và
bắn vài phát súng sáu là viên khâm-sai
Phan Kế Toại vội vã đầu hàng. Bảo Đại
cũng thoái vị và ông Hồ trở thành chủ
tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà. Mấy ngày sau, theo đúng
Hiệp ước Postdam, quân đội Anh đổ bộ
lên Sài gòn và quốc quân Trung-hoa
tiến vào Hà Nội để tước võ khí của bại
quân Nhật-bản. Hai đội quân chiếm
đóng tìm cách ngăn cản phong trào
Việt Minh. Trong Nam thì quân Anh
thả tù binh Pháp, cho họ khí giới để
đánh chiếm lại Việt Nam, còn ngoài
Bắc thì quân đội Lư Hán giúp Việt
Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam
Cách Mạng Đồng Minh Hội chống chọi
với Việt Minh. Phe quốc gia tuyên
truyền chống Việt Minh, bắt cóc và thủ
tiêu cán bộ cộng sản và chiếm giữ một
vài địa điểm làm căn cứ quân sự.
"Bị chống đối mỗi ngày một kịch liệt,
ông Hồ bắt buộc phải nhượng bộ phe
quốc gia, dành cho họ 80 ghế trong
Quốc Hội bầu cử giả hiệu, thành lập
Chính phủ Liên hiệp và hô hào toàn
dân đoàn kết chống Pháp. Đảng cộng
sản tuyên bố tự giải tán để chứng tỏ
nhiệt tâm của họ đối với chính nghĩa
quốc gia, nhưng thật ra vẫn tiếp tục
hoạt động bí mật và kiểm soát quần
chúng. Trong khi ấy phe quốc gia cũng
củng cố vị trí và tăng cường tuyên
truyền chống Cộng. Trong lúc ông Hồ
đang lúng túng vì bị Pháp và Quốc gia
tấn công hai mặt thì một thoả hiệp
giữa Pháp và chính phủ Tưởng Giới
Thạch mang lại cho ông một lối thoát
bất ngờ. Theo thoả hiệp này, Tưởng
Giới Thạch ưng thuận rút quân ra khỏi
miền Bắc Việt Nam, nhường chỗ cho
quân đội Pháp.
"Sau khi quân Lư Hán rút khỏi, cộng
sản lập tức tấn công và tiêu diệt Việt
Nam Quốc Dân Đảng, và sau đó điều
đình với Pháp. Ngày mùng 6 tháng 3
năm 1946, Việt Minh ký hiệp định sơ
bộ với Pháp, theo đó nước Pháp "thừa
nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là
một quốc gia "tự do" thuộc khối Liên
hiệp Đông Dương và Liên hiệp Pháp,
có chính phủ, quốc hội, quân đội và một
nền tài chính riêng." Sau này, Việt
Minh cố gắng điều đình sửa lại một vài
điều khoản trong Hiệp ước đó để cho
Việt Nam được hoàn toàn độc lập, vì
theo Hiệp định Sơ bộ thì quân đội Pháp
vẫn có quyền chiếm đóng Việt Nam.
Hai cuộc Hội nghị Đà Lạt (tháng 4 và
tháng 5 năm 1946) và Fontainebleau
(tháng 7 và tháng 8 năm 1946) đều
thất bại mặc dầu ông Hồ đã đích thân
sang Paris để vận động. Rốt cuộc,
không lẽ ra về tay không, ông Hồ phải
ký với tổng trưởng Pháp quốc Hải
ngoại, Marius Moutet, một đảng viên
xã hội mà ông đã quen trên hai mươi
năm, một bản tạm ước xác nhận những
điều khoản đã quy định trong Hiệp định Sơ bộ.
"Nhưng quân Pháp không tôn trọng
hiệp định cứ viện đủ mọi cớ để chiếm
hết vị trí này đến vị trí khác, khiến
chịu không nổi, ông Hồ phải trả đũa
bằng một cuộc tấn công bất ngờ vào
ngày 19 tháng chạp [12] năm l946.
Ông Hồ quyết định hồi 11 giờ sáng, và
định giờ khởi sự là 8 giờ tối." (6)
Chiêu Niệm Văn Chương tháng 12
năm nay người viết có bài này để tưởng
nhớ nhà biên khảo văn học sử đã để lại
cho hậu thế một cuốn sách mẫu mực
cho tới nay chưa có một cuốn tương tự.
Mong các thức giả có những tài liệu về
giáo sư Dương Quảng Hàm viết tiếp
cho, hay bổ sung giùm những thiếu sót.
CHÚ THÍCH:
1. Dương Quảng Hàm, 'Biên tập đại ý,'
Việt Nam Văn học sử yếu, Bộ Quốc gia Giáo
dục, Sài gòn, 1958, trang 3, 4, 5.
2. Phạm Thế Ngũ, Kim văn tân tuyển,
Anh Phương, Sài gòn, 1966. trang 453.
3. Mỗi sách viết về sự ra đời của Việt
Nam Sử Lược một khác nhau. Vũ Ngọc
Phan ghi là 1928 (NVHĐ, cuốn II); Phạm
Thế Ngũ viết là 1920 (VNVHSGƯTB, quyển
III); Từ điển tác gia Việt Nam, Nguyễn Bá
Thế, Ng. Q. Thắng ghi 1928 (như VNP).
4. Dương Quảng Hàm, Văn học Việt
Nam, trang 47.
5. Dương Bá Trạc (1884-1944) đỗ cử nhân
năm 16 tuổi nhưng không ra làm quan, mà
đi lo việc nước, dạy Đông Kinh nghĩa thục
tại Hà Nội năm 20 tuổi. Năm 24 tuổi bị
Pháp đày Côn Đảo. Năm 1943 bị Nhật bắt
đem ra khỏi nước và năm sau từ trần ở
Singapore. Ông để lại một số tác phẩm như
Tiếng Gọi Đàn, Nét Mực Tình, Chữ Nho
học lấy, Chức trách Sĩ Lưu. Thơ ông rất
hùng, có dịp chúng tôi sẽ nói tới sau. [Có
bạn hay nhớ lầm Dương Bá Trạc với
Nguyễn Bá Trác, tác giả bài Hồ Trường.]
6. Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng
sản, bản Việt ngữ dịch từ From colonialism
to communism, 1964, trang 91-93.
* Theo Việt Dân Hoàng Văn Đào, Việt
Nam Quốc Dân Đảng, Lịch sử đấu tranh
cận đại, 1927-1954, Sài gòn, 1970, trang
434: "Còn Pháp, sau khi đã làm chủ tình
hình thủ đô Bắc Việt, cũng ra tay trả thù
người Việt... Khắp các ngôi nhà bỏ hoang
trong thành phố, không căn nhà nào là
không có một vài xác chết. Khắp các hầm
hố CS đào để làm công sự chống Pháp, nay
đầy dẫy những xác đồng bào bị Pháp giết
rồi hất xuống đó. Và vĩ đại nhất là hầm trú
ẩn phi cơ Đồng Minh suốt chiều ngang bên
cạnh toà án, Pháp đã dẫn tới đây hàng truỗi
người bắt đứng xếp hàng, rồi bắn chết hất
xuống nơi trú ẩn này; tập trung có hàng
ngàn xác chết."
Xem thêm:
Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận, Nam Á, Paris, 2002, cuốn 4, chương ba, trang 2141-2146.
Viên Linh
Tạp chí Khởi Hành, số 110, Tháng 12.2005

|