7-8-2021 | VĂN HỌC

Bóng Dáng Đà Lạt Trong Thơ Nhất Tuấn

  NGÔ TẰNG GIAO

     
Nhà thơ Nhất Tuấn
(1935 - 31.7.2021)

Nhà thơ NHẤT TUẤN tên thật là PHẠM HẬU. Sinh trưởng tại Nam Định. Quê ngoại quê nội ở Ninh Bình. Di cư vào Nam năm 1954. Gia nhập trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, năm 1955, Khóa XII. Rồi từ 1966 từng làm Quản Đốc Đài Phát Thanh, Giám đốc Nha Nghiên Cứu Kế Hoạch Bộ Thông Tin, Giám Đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh và Tổng Giám Đốc VN Thông Tấn Xã v.v… Trên vai nhà thơ là hai hoa mai trắng: Trung Tá.


Nhà thơ được biết đến nhiều qua những tập thơ “Truyện Chúng Mình” (xuất bản trong khoảng từ 1959-1964) và những tập truyện “Đời Lính” (xuất bản 1965). Trên 50 bài thơ trong “Truyện Chúng Mình” đã được phổ nhạc bởi nhiều nhạc sĩ trong khoảng từ 1959-2008.


Từng sống ở Đà Lạt nên thành phố đầy sương mù và mưa bay này vẫn luôn mãi tiềm ẩn ở một góc nào đó trong trái tim nhà thơ. Có lẽ cũng vì thế mà trong những vần thơ “Truyện Chúng Mình” NHẤT TUẤN đã ghi lại một số những dòng hồi tưởng với hình ảnh Đà Lạt mà một phần đời của mình còn gửi lại nơi chốn ấy. Và có lẽ để tưởng vọng về Đà Lạt mà trong chuỗi ngày sống ly hương, khi mái tóc đổi màu, nhà thơ đã chọn một thành phố cũng đầy mưa rơi giữa miền đồi núi chập chùng với ngàn thông xanh hoài ngàn năm ở vùng trời tây bắc Hoa Kỳ để định cư, đó là Seattle (Washington State).


Trong thơ NHẤT TUẤN, thoạt tiên tình yêu thấp thoáng trong bài “Truyện Chúng Mình”, chỉ gợi lên nỗi nhớ mong của người ở Đà Lạt vì bị xa cách với người ở Sài Gòn:

“Còn nhớ những thư người trước gửi

Sàigòn - Đàlạt mới năm nào

Từng chiều thứ bảy anh mong đợi

Màu chữ xanh, yêu đến ngọt ngào


Hồn có nguyên trinh màu trắng cũ

Môi hồng vẫn thắm thuở ban đầu

Không dưng lòng rộn niềm ao-ước

Nhưng biết ai còn nhớ đến nhau.”

Trong đời lính, khi phải rời xa Đà Lạt, từ nơi tiền đồn biên giới nhà thơ gửi lòng nhung nhớ về thành phố này nhân mùa Giáng sinh khi viết bài “Niềm Tin”, cũng đầy mong nhớ:

“Lại một Noël nữa

Mấy mùa Giáng sinh rồi

Anh ở đồn biên giới

Thương về một khung trời.


Chắc Đàlạt vui lắm

Mimosa… nở vàng

Anh đào khoe sắc thắm

Hương ngào ngạt không gian


Mấy mùa Giáng sinh trước

Chỗ hẹn anh chờ hoài

Lần này không về được

Hồi hộp đợi tin ai.”

Một ngôi giáo đường nhỏ bé của Đà Lạt cũng lưu lại kỷ niệm một mùa Giáng Sinh với hoa anh đào khoe sắc thắm trong lòng NHẤT TUẤN. Nhà thơ viết bài “Nhà Thờ Đường Cô Giang”:

“Thêm xuân nữa lại về

Giữa một trời tuyết lạnh

Nhiều đêm dài xa quê

Tìm hoài trong ảo ảnh


Những kỷ niệm thần tiên

Bây giờ anh vẫn nhớ

Nhà thờ đường Cô Giang

Chúa nhật… mình đến đó


Đàlạt vào Giáng Sinh

Anh Đào reo mở hội

Tan lễ em và anh

Đường hoa về chung lối


Họ thấy… em hôn anh

Vội làm dấu Thánh Giá

Mấy sơ và… sư huynh…

Muốn là thiên thần cả!!


Em hỏi:

- Họ có yêu?

Anh đáp:

- Khi khấn hứa

Họ xin yêu rất nhiều

Yêu hết con cái Chúa


Anh cố giữ niềm tin

Của tuổi trẻ mơ mộng

Nơi quê hương ngàn trùng

Xin em đừng tuyệt vọng


Vì sẽ có một ngày…

Giáo đường xưa… lại đến

Quỳ dưới trời tuyết bay

Thiết tha anh cầu nguyện.”

Sau khi tình yêu nơi giáo đường xuất hiện, trong hồi tưởng nhà thơ chỉ mong “thấy” được người yêu nơi bài “Cầu nguyện” (chứ không mong “lấy” như bản nhạc đã đổi lời) với hai câu cuối thật buồn bã:

“Con quỳ lạy chúa trên trời

Để cho con thấy được người con yêu

Đời con đau khổ đã nhiều

Kể từ thơ dại đủ điều đắng cay

Số nghèo hai chục năm nay

Xây bao nhiêu mộng trắng tay vẫn nghèo

Mối tình đầu trót bọt bèo

Vì người ta thích chạy theo bạc tiền

Âm thầm trong mối tình điên

Cầm bằng Chúa định nhân duyên bẽ bàng

Bây giờ con đã gặp nàng

Không giàu, không đẹp, không màng lợi danh.

Chúng con hai mái đầu xanh

Chấp tay khấn nguyện trung thành với nhau.

Thề rằng sóng gió biển dâu,

Đã yêu… trước cũng như sau… giữ lời


Người ta lại bỏ con rồi,

Con quỳ lạy Chúa trên trời thương con.”

Giáng sinh thường là thời điểm kỳ diệu nhất trong suốt cả năm với tiếng chuông ngân nga trong đêm vắng, với ánh nến lung linh huyền ảo và thánh ca trầm bổng gợi lên những cảm xúc thanh thoát, êm đềm và thánh thiện. Bên giáo đường hoa mimosa Đà Lạt khoe sắc vàng tươi thắm, nhưng trong lòng nhà thơ lại chỉ nổi lên kỷ niệm buồn bã với bài “Mimosa Thôi Nở”:

“Noël xưa anh nhớ

Khi hãy còn yêu nhau

Nhà thờ nơi cuối phố

Thấp thoáng sau ngàn dâu

Anh chờ em đi lễ

Chung dâng lời nguyện cầu

Mimosa bừng nở

Đẹp như tình ban đầu

Đàlạt mờ trăng lạnh

Đường về ta bước mau.


Rồi anh hỏi khẽ em

Đã xin gì với Chúa

Trong đêm lễ Noël

Em lắc đầu chả nhớ

Nhưng hồng lên đôi má

Nắm tay anh đợi chờ

Trông em sao xinh quá

Và ngoan như nàng thơ


Mới bốn mùa thu qua

Mimosa vẫn nở

Sao mối tình đôi ta

Ai làm cho dang dở


Đêm nay Noël đây

Chuông nhà thờ khắc khoải

Gió đồi lang thang bay

Mưa buồn giăng ngõ tối


Anh quỳ bên tượng Chúa

Cúi đầu chắp hai tay

Lạy Chúa con chờ đợi

Người ngày xưa về đây

Nhưng em không về nữa

Đường khuya mưa bay bay

Mimosa thôi nở

Trong hồn anh đêm nay.”

Trong bài thơ “Truyện Cây Hoa Mimosa” (1964), lại cũng vẫn thoáng vẻ giận hờn, trách móc:


“Một đi vĩnh biệt cao nguyên

Mimosa trả… cho miền núi non

Làm gì có chuyện sắt son

Thì thôi đừng dại mỏi mòn mắt trông”


Đà Lạt là thành phố với núi đồi và rừng thông. Núi vươn cao cùng thông xanh reo suốt bốn mùa như cùng hát vang lên khúc tình ca gửi vào năm tháng mà nếu vắng bóng thời thành phố sẽ như một cơ thể mất linh hồn. Hình ảnh ngọn núi cao Lap Be Bắc (Lapbe Nord) và cảnh Đà Lạt về đêm đã được nhà thơ NHẤT TUẤN nhắc tới trong bài “Đêm Cuối Cùng Đàlạt”, cũng kể lại một chuyện tình dang dở:

“Rồi kỷ niệm về dần trong trí nhớ

Đêm cuối cùng hai đứa đi ciné

Những con đường Đàlạt lúc vào khuya

Hoa lả tả rơi vàng đôi mái tóc


Gió buốt từ "Lap Be Nord" xa tắp

Anh vội vàng cởi áo khoác cho em

Tiếng thở dài chen tiếng bước đi êm

Mình yên lặng dìu nhau cho đến sáng.


Và anh nhớ em hát bài Hoài Cảm

Giọng ngân buồn, môi gọi cố nhân ơi

Đêm hôm qua trong tiệc cưới đông người

Lời hát cũ làm anh xao xuyến mãi.


Ôi ngày xưa sao giờ không trở lại?

Để em là riêng của một mình anh

Để anh nghe hoài giọng hát thanh thanh

Nhưng câu chuyện chúng mình không kết cuộc


Vì hai đứa… tại vì… ai biết được?!

Nên giờ này anh phải sống xa em

Rồi tình cờ nghe giọng hát quen quen

Bài Hoài Cảm, đêm cuối cùng Đàlạt!”

Trước từng cùng “người xưa dịu hiền” kề vai nhau tình tự ngồi bên hồ Than Thở. Nay sao lại đã xa nhau, chỉ còn lại lời thở than tiếc nhớ dĩ vãng kỷ niệm trong “Bài Hát Đồi Sim”:

“Đàlạt đầy sương khói

Một mình anh lặng yên

Nghe hồn mình nức nở

Nghe buồn len trong tim


Nếu mình đừng gặp nhau

Trên núi đồi Đàlạt

Vì tình yêu ban đầu

Đã tan theo sóng nhạc


Người xưa… người xưa đâu?

Để… lòng anh tan nát

Đời bãi bể nương dâu

Cũng buồn như tiếng hát.”

Cũng vẫn hồ Than Thở Đà Lạt thuở nào là nơi đôi lứa vui chơi với hoa “bất tử” từng là sứ giả của tình yêu. Nhưng nay sao chỉ còn là một kỷ niệm buồn đến “tàn nhẫn” trong bài thơ “Cánh Immortel Cuối Cùng” (1964):

“Hôm xưa đi chơi hồ Than Thở

Em ngắt bên đường một đóa hoa

Rồi chạy đến anh cười hớn hở

Đây hoa bất tử như tình ta


Hoa ấy màu vàng chen sắc máu

(Màu vàng tâm sự kẻ yêu nhau

Là âu yếm với tình đôn hậu)

Êm đẹp bao nhiêu giấc mộng đầu


Quả thực cũng như tên bất tử

Bông hoa nho nhỏ của người thơ

Anh đem về để trong phòng ngủ

Tươi mãi không tàn, có lạ chưa


Từ dạo sân nhà em đỏ pháo

Em cùng người ấy sống yên bình

Đêm đêm úp mặt vào tay bảo

Nào có ra chi... truyện chúng mình


Trái với tên hoa là bất tử

Hoa dần héo rũ sắc tàn phai

Cánh rơi tan nát như tâm sự

Như tiếng lòng anh khẽ thở dài


Rồi đến chiều nay cánh cuối cùng

Trời dâng lệ xuống khóc rưng-rưng

Hoa ơi đừng giống tình ta nhé

Ta vẫn cầu mong được thủy-chung


Anh quên màu đỏ trong hoa đó

Màu đỏ là màu của biệt-ly

Và của bao nhiêu sầu hận tủi

Giờ đây còn biết nói năng chi


Cánh hoa bất tử rơi lần chót

Tàn nhẫn như người rũ áo đi.”

Mưa Đà Lạt giăng mắc trên thành phố cũng khiến cho nhà thơ ngậm ngùi nhớ lại biết bao hình ảnh cũ chất chồng, đầy ngang trái và nát tan. Trong cảnh Xuân về với cái Tết tha hương, NHẤT TUẤN viết bài “Mưa trong kỷ niệm”:

“Chiều mưa đó tưởng không còn gặp lại

Lần cuối cùng hai đứa lặng nhìn nhau

Có bao giờ em hiểu được anh đâu

Tình ngang trái và những lời gian dối


Trong tay nhau nhiều lần anh tự hỏi

- Ái Khanh ơi! Em còn nhớ chăng em

Bình minh hồng... và những buổi chiều êm

Truyện Chúng Mình... với bao nhiêu kỷ niệm


Hoa không đợi mà tình cờ bướm đến

Mình yêu như chưa từng có bao giờ

Em về rồi anh ở lại bơ vơ

Và bỗng thấy muốn giận hờn mãi mãi


Chiều mưa đó tưởng không còn gặp lại

Nào ngờ đâu trên thành phố Cao Nguyên

Đang âm thầm đếm bước dưới trời đêm

Anh bỗng thấy dáng người xưa thấp thoáng


Mái tóc đó bồng bềnh che vầng trán

Nét môi cười và cặp mắt nai tơ

Anh tưởng mình như đang sống trong mơ

Và thầm hỏi hay chỉ là hư ảnh


Ai thoạt gặp đã vội vàng lẩn tránh

Trong mưa bay anh thờ thẫn ra về

Mimosa tràn ngập lối anh đi

Hoa hay chính mình đang tan nát...?


Tết tha hương... nhớ mùa xuân Đàlạt

Lòng bâng khuâng nhớ người cũ năm nào

Tình tưởng phai theo ngàn cánh anh đào

Bỗng giây phút lại thắm hồng nỗi nhớ


Tiếng mưa như giọng ai... hoài nức nở

Lần cuối cùng... rồi mãi mãi...

Và mãi mãi... chia xa...

Cho hồn anh nổi bão táp phong ba

Thương từng hạt mưa buồn trong kỷ niệm.”

Một ngày nào đó khi hồi tưởng về thành phố cao nguyên với tình yêu đẹp đẽ tràn đầy mộng ước lúc mình còn là sinh viên võ bị, NHẤT TUẤN viết bài “Nhớ Về Đàlạt” (1964). Thời gian trôi qua. Cảnh vẫn còn đó. Người xưa đã cách xa. Để rồi lại cũng vẫn đầy hình ảnh của buồn bã, của dang dở chia ly vào giai đoạn cuối của khúc nhạc tình:

“Nhớ tám năm về trước

Khi còn là sinh viên

Học trong trường Võ bị

Nơi núi rừng cao nguyên


Dạo ấy em mười tám

Xinh đẹp hơn tiên nga

Tóc mây bồng vương trán

Môi cười tươi như hoa


Còn nhớ không ngày xưa

Đàlạt buồn trăng mờ

Gió vàng trên nước biếc

Chim chiều bay bơ vơ


Chúng mình sát vai nhau

Tay đan tay chậm bước

Cùng đếm từng vì sao

Rồi xây bao mộng-ước


Rừng ái ân vẫn đó

Hồ Than thở còn đây

Thông im buồn đợi gió

Mây đồi xa còn bay


Cũng vẫn một khung trời

Còn nguyên hình ảnh cũ

Em bây giờ xa rồi

Tìm đâu người viễn xứ


Tình nào không dang dở

Màu nào mà không phai

Cho nên anh không nỡ

Làm thơ để trách ai


Riêng chiều nay nhớ lại

Truyện chúng mình ngày xưa

Nhìn khung trời Đàlạt

Mà tưởng mình đang mơ.”

Trong cuộc sống tại ngước ngoài, với tiêu đề “Truyện chúng mình hải ngoại” NHẤT TUẤN viết: “Thôi trang đời đã khép”:


“Và những chiều Đà Lạt

Một mình trên đồi thông

Mưa nhạt nhoà trong mắt

Gửi sầu... vào mênh mông”


Bài “Ảo ảnh”:


“Xin giữ mãi kỷ niệm buồn Đà Lạt

Giữa đồi thông rừng cỏ non xanh ngắt

Nhớ điên cuồng trong một phút bâng khuâng”


Bài “Lại một xuân buồn” (1985):

“Nhớ Bích Câu Đà lạt thoáng mưa bay

Hồ Than Thở cùng lòng ai hòa nhịp

Rừng Ái Ân với ngàn thông xanh biếc

Thác Gougah, cây gọi gió than van

Đồi 15 đâu đó cụm mai vàng

Giáng Sinh tới Anh đào khoe sắc thắm

Mimosa sương long lanh đọng nắng

Chiều Lâm Viên, bản Thượng khói dâng cao

Những kỷ niệm xưa thân ái biết bao…

Ghi lại thuở bên nhau nơi Trường Mẹ!”

Mới chỉ trích dẫn một số ít vần thơ trong “Truyện Chúng Mình” của NHẤT TUẤN người đọc đã thấy bóng dáng thành phố sương mù Đà Lạt chập chờn ẩn hiện. Bóng dáng Đà Lạt một trời thương nhớ quả thật rất thích hợp để được chọn làm bối cảnh cho những truyện tình.


Tình yêu nam nữ đã có từ vạn kiếp và luôn là một đề tài bất diệt trong vườn hoa văn học nghệ thuật của bất cứ quốc gia nào. Riêng trong lãnh vực thi ca thì từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, tình yêu luôn gợi hứng cho các nhà thơ. Hình như tình yêu không có tuổi tác, chừng nào trái tim con người còn đập thì con người còn yêu. Hơn nữa một số văn sĩ, thi sĩ đã từng nói rằng: “Thơ trữ tình có thể coi như tổng hợp, như tuyệt đỉnh của thơ, mà chính thơ là tuyệt đỉnh của tiếng nói loài người!” Họ còn mạnh miệng nói thêm nữa: “Thi ca sẽ là tôn giáo cuối cùng trên mặt địa cầu này khi mà tất cả nhân loại không còn giữ lại được cho họ một niềm tin nào ở nơi tôn giáo mà chúng ta đang có”.


Thật ra nhà thơ không phải là kẻ vì phạm tội mà bị “phát vãng” từ thiên cung xuống dưới trần như có người thường nói. Nhà thơ cũng chỉ là một con người bình thường và đối tượng của thơ, chất liệu tạo ra thơ chính là cuộc sống trên cõi nhân gian mà thôi. Cũng vẫn có yêu có ghét, có vui có buồn, có quên có nhớ, có xum họp và có chia ly… Có lẽ phải quan niệm rằng: “Thơ là một lối sống, một lối nhận thức, một lối dùng ngôn ngữ, âm điệu để diễn tả tâm tư tình cảm riêng. Cái nền của thơ là cảm xúc, một cảm xúc thành thật. Thơ không phải là một cách độc thoại mà phải là một cách truyền đạt kinh nghiệm cho tha nhân. Thơ cần có sự thông cảm và thưởng thức của người đọc.”


Người yêu thơ có lẽ phải nhận ra rằng NHẤT TUẤN, với những vần thơ lai láng trữ tình trong “Truyện Chúng Mình” không phải chỉ là truyện riêng tư “thì thầm bên gối” giữa hai người nữa mà đã hóa thành “truyện chúng mình” của bao nhiêu là đôi tình nhân thanh niên nam nữ khác. Nhà thơ đã viết xuống hộ những trang nhật ký về tình yêu của những người trẻ tuổi. Khi thì đằm thắm thiết tha. Nhiều lúc lại dang dở não sầu, phải cần đến thời gian như là một loại linh dược để dần dần hàn gắn các vết thương lòng trong quá khứ. Có thể coi đây là tâm sự chung của một thế hệ thanh niên thời đó, đồng một lứa tuổi với tác giả.


Nhưng có một điều quan trọng cần phải nói thêm là sau những tháng ngày quằn quại với “Truyện Chúng Mình”, NHẤT TUẤN đã vươn khỏi những hình ảnh buồn chán thương đau, những nhớ nhung rất thế nhân thường tình của thời trai trẻ đó. Nhà thơ đã chuyển hướng về một chân trời thi ca với tầm cao của những hình ảnh đẹp đẽ hơn như những lời tâm sự chân thành của nhà thơ NHẤT TUẤN mấy chục năm sau khi viết những “Truyện Chúng Mình”:

“Ngày còn là cậu học trò Trung Học

Trong tình yêu bé nhỏ, cá nhân

Tôi đã từng than thở biết bao lần

Và làm thơ

Trách những ngườì mau phụ bạc...

...

Giờ đây, theo đời sống quân đội lớn lên

Sau những tháng năm tranh đấu

Tôi bỗng thấy rằng

Mình chỉ toàn là thương hờ nhớ hão

Tôi bỗng thấy rằng

Còn rất nhiều tâm sự khác để làm thơ...”

(VIRGINIA, USA, Mùa Thu Vàng 2010)

Ngô Tằng Giao

Nguồn: dalatdauyeu.org