28-12-2012 | VĂN HỌC
Trấn nam Quan, Cửa Ải Gắn Liền Với Dòng Sử Việt
TRẦN LAM GIANG
 Bản đồ biên giới Việt Hoa trong L'Indochine du Nord của P. Braemer. Nguồn: Khởi Hành
Ải Nam Quan, gần gũi quen thuộc
trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, thiết
tha gắn bó với tâm tình quê hương nước
nòi của người Việt Nam. Dù chưa một
lần được đến tận nơi để ngắm nhìn cửa
ải xung yếu ấy, dù không biết chính xác
vị trí địa lý: Ải ấy ở làng nào, huyện
nào, tỉnh nào trên lãnh thổ nước ta, ai ai
(người Việt) cũng biết cửa ải ấy ở biên
giới Bắc Việt và Hoa Nam, được ông
cha ta dựng lên nhằm mục đích trấn giữ
ngăn ngừa nạn xâm lăng đến từ phía
Nam nước Tầu. Do đó, ải này được gọi
là Trấn Nam Quan. Nơi này đã ghi dấu
nhiều cuộc lịch sử thăng trầm.
Vị Trí Địa Lý
- Sách Vân Đài Loại Ngữ do Lê Quý
Đôn biên soạn, quyển thứ 3: Khu-Vũ
loại, gồm 93 điều nói về tương quan
giữa địa lý với thiên văn và chính trị.
Điều thứ 81 có ghi:
"Phía Bắc nước ta tiếp giáp với lãnh
thổ Trung Quốc, có ba cửa ải:
1. Mạn trên có Thủy Khẩu Quan,
thuộc tỉnh Cao Bằng.
2. Mạn giữa có Bình Nhi Quan, thuộc
huyện Thất Khê.
3. Mạn dưới có Trấn Nam Quan,
thuộc tỉnh Lạng Sơn.
Ba cửa ải ấy là nơi quan hệ trọng yếu
để ngăn ngừa quân địch.
- Sách Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cương Mục, bộ sử quý giá do
Quốc Sử Quan triều Nguyễn biên soạn,
phần chính Biên quyển thứ 12 có ghi:
"Pha Lũy Quan ở xã Đồng Đăng,
huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn, nay gọi là Nam Quan"
Lịch Sử Địa Danh
Ải Nam Quan được tiền nhân dựng
lên từ bao giờ, không tìm thấy trong sử
sách cũng như truyền thuyết dân gian.
Các sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư,
Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Vân
Đài Loại Ngữ đều cho biết: Ải có từ lâu
đời, thời Hậu Lê trở về trước gọi là Pha
Lũy Quan. Khoảng Lê Trung Hưng đổi
thành Trấn Nam Quan, tiếng nôm gọi là
Ải Nam Quan. Tại sao đổi tên và đổi
chính xác vào niên đại nào, dưới triều
vua nào, chưa rõ.
Ải nằm trong xã Đồng Đăng, một
trong 227 xã của tỉnh Lạng Sơn, vậy
không phải là một kiến trúc lớn lao,
nhưng có giá trị to tát về chiến lược.
Nguyễn Trãi có ghi trong Dư địa chí về
tỉnh Lạng Sơn: "Lạng Sơn, xưa là Bộ
Lục Hải (l trong 15 bộ của nước Văn
Lang đời Hùng) tây nam giáp Thái
Nguyên, đông bắc giáp Lưỡng Quảng,
có 1 phủ gồm 7 châu, 227 xã, là phên
giậu thứ ba ở phía Bắc"
Nguyễn Thiên Tích, một danh nho
cùng thời với Nguyễn Trãi, cẩn án (kính
xét): một phủ của tỉnh Lạng Sơn là phủ
Trường Khánh. Bẩy châu là: Lộc Bình,
Thoát-Lãng (xưa là Thoát Lạc), Yên
Châu, Văn Uyên (xưa là Văn Châu), An
Lan, Thất Nguyên (nhà Mạc đổi là Thất
Toàn) và An Bắc.
Đại Nam Nhất Thống Chí ghi: Nhà
Lê đổi phủ Thừa Khánh ở Lạng Sơn
thành phủ Trường Khánh.
Châu Lộc Bình thời Minh thuộc gọi
là Lộc Châu. Thời Hậu Lê gọi là Lộc
Bình. Thời Tây Sơn gọi là Lộc Bằng
(Bình đọc theo Nôm là Bằng), Thời
Nguyễn đọc lại theo âm Hán là Lộc Bình).
Theo Thiên Nam Dư Hạ Tập: Yên
Châu gọi là Ôn Châu thời Tiền lê là đất
Quang Lang, thời Lý và thời Trần gọi là
huyện Khâu Ôn. Văn Uyên là tên đặt từ
thời Hậu Lê, thời Lý gọi là châu Văn,
thời Minh thuộc gọi là huyện Uyên.
Theo An Nam Chí Lược, châu Thất
Nguyên là tên thời Lý và thời Trần.
Xét theo sử, thời Hậu Lê cũng gọi là
Thất Nguyên. Nhà Mạc kiêng tên Mạc
Phúc Nguyên nên đổi thành Thất Toàn.
Lịch Sử Sinh Tồn
Như nước Việt ta từ trước,
Vốn xưng Văn hiến đã lâu.
Sơn hà cương vực đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô Đại Cáo)
Một dòng lịch sử bảo chủng sinh tồn
hơn 4000 năm, gìn giữ được biên cương,
xây dựng cuộc sống có ý nghĩa và giá
trị, thể hiện và phát huy nền văn hóa
nhân bản cao cả, đã phải trả giá sông
máu núi xương qua nhiều cuộc dâu biển
thăng trầm, có nhục có vinh.
Trước khi phải đối phó thêm bạo lực
xâm lược đến từ phương Tây, đời đời
dòng giống Việt phải ngăn chặn nạn
ngoại xâm nhằm mục đích đồng hóa
đến từ phương Bắc (Trung Hoa). Ải
Nam Quan có sứ mạng làm phòng
tuyến chiến lược quan trọng. Nam Quan
còn, non nước vững yên. Nam Quan
mất, biên thùy rung chuyển. Chính ở nơi
này, nhiều trang sử rực ánh vinh quang
đã được viết lên, cũng có nhiều trang
tối tăm ảm đạm lòng dân nước. Dưới
đây ghi lại mấy nét đặc trưng.
Đau Nhục Ở Nam Quan
Năm Nhâm Dần (Tây lịch năm 42),
đời Hán Kiến Vũ năm thứ 18, Mã Viện
chia quân làm hai đường tiến vào nước
ta: đường biển và đường bộ. Đường bộ
vượt núi phá rừng tiến vào Lạng Sơn
(Ải Nam Quan ở Lạng Sơn).
Năm Quý Mão (Tây lịch năm 43),
Viện chiếm được nước ta, dựng cột
đồng ở biên giới Việt Hoa với lời
nguyền: "Cột đồng gẫy, Giao chỉ diệt"
(Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt).
Về cột đồng này, sách Thủy Kinh
Chú ghi: "Mã Uyên Minh (Mã Viện)
dựng cây nêu bằng kim loại (kim tiêu)
để đánh dấu giới hạn cực Nam của
Trung Quốc. Cây nêu (kim tiêu) ấy tức
cột đồng (đồng trụ). Viên Tuần phủ Lý
Công Phất nhà Thanh viết trong bài
"Trùng Tu Nam Quan Ký" (1): "Riêng Ải
Nam Quan trông sang Giao chỉ, thật là
hiểm yếu, ở đó có cột đồng của Mã Tân
Tức (Mã Viện)".
Năm Ất Dậu (1405) Hồ Hán Thương
năm Khai Đại thứ 3, vua Minh là Vĩnh
Lạc tiến quân đe dọa Nam Quan, nhà
Hồ khiếp nhược cắt đất dâng cho giặc.
Dư Địa Chí ghi: "Nhà Hồ sai Hoàng Hối
Khanh làm sứ đi cắt đất, lấy Lộc Ninh,
Cổ Lâu 30 xã cho giặc Minh. Đất bị mất
rộng đến 5 ngày đường". Về việc này,
sách Đại Việt Sử Ký Tiền Biên ghi: "Cái
tội bán đất của Quý Ly, giết đi cũng
không hết tội được". Sử thần Ngô Thì
Sỹ bàn: "Từ đó về sau giặc Minh nhân
sơ hở luôn luôn đến quấy rối, khiến cho
việc can qua làm tan nát đến hơn vài
chục năm. Tội của cha con Quý Ly thấu
lên đến tận trời".
Năm Canh Tí (l540) tháng 11, Mao
Bá Ôn, tướng giặc Minh (Gia Tĩnh)
đóng quân dựng trại trước Nam Quan.
"Mạc Đăng Dung đế Mạc Phúc Hải ở
lại coi giữ việc nước, tự mình cùng cháu
là Mạc Văn Minh và bè đảng là bọn Vũ
Như Quế hơn 40 người do đường Nam
Quan đi sang: ai nấy đều buộc dây thừng
vào cổ, đi chân đất, quỳ lạy phủ phục
nơi trại tướng Minh, khúm núm khấn đầu
lạy lục, dâng biểu xin hàng, nộp trình sổ
sách đất đai và người dân do mình quản
trị" (Khâm Định Việt Sử Thông Giám
Cương Mục, chính biên).
Vinh Quang Ở Nam Quan
Năm Canh Tý (Tây lịch năm 40),
Trưng Nữ Vương đau lòng trước cảnh
Tô Định dùng luật pháp bạo ngược trói
buộc quốc dân, lại thù Định giết chồng,
bèn dấy nghĩa ở huyện Mê Linh, châu
Phong (Phú Thọ và Vĩnh Yên) đánh
đuổi Tô Định. Định thua chạy theo ngả
Lạng Sơn mà về Tầu. Các quận Nam
Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, 65
thành ở Lĩnh Ngoại đều theo về. Nước
nhà tự chủ.
Năm Tân Tỵ, mùa Xuân tháng 3
(981) nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem
quân sang chiếm nước ta. Vua Lê Đại
Hành đánh tan quân giặc, chém Hầu
Nhân Bảo ở Chi Lăng (Ôn Châu - Lạng
Sơn). Quân giặc sống sót chạy qua châu
Văn Uyên (nơi có Ải Nam Quan) mà về Tầu.
Năm Canh Tý, Lý Thánh Tông niên
hiệu Chương Thánh Gia Khánh thứ 2
(1060), mùa Xuân, châu mục Lạng
Châu (Lạng Sơn) là Thân Thiệu Thái
tiến quân sang Tầu, bắt sống chỉ huy sứ
nhà Tống là Dương Bảo Tài đem về
nước. Viện lẽ: Bảo Tài dụ giỗ và dung
túng lính nhà Lý trốn qua Tống.
Mùa Thu tháng 7 năm ấy, nhà Tống
cất quân xâm chiếm, bị chấn đánh ở
Lạng Châu (nơi có Ải Nam Quan). Quân
Tống phải lui. Vua Tống sai Thị Lang
bộ Lại là Dư Tĩnh đến Châu Ung để hội
nghị. Vua Lý Thánh Tông sai Phí Gia
Hưu đi dự. Dư Tĩnh đối với Phí Gia Hựu
rất là cung kính và dâng thư xin trả chỉ
huy sứ Dương Bảo Tài cho nhà Tống.
Vua nhà Lý không chịu trả.
Năm Giáp Thân tháng chạp (1284)
giặc Nguyên mượn cớ đánh Chiêm
Thành để tiến quân vào nước ta lần thứ
2. Thoát Hoan chia quân làm hai ngả:
một theo đường biển do Toa Đô chỉ
huy, một theo đường bộ do Thoát Hoan
chỉ huy. Thoát Hoan kéo quân qua Pha
Lũy Quan (tức Ải Nam Quan) tiến vào
đến thôn Ma Lục, bị hai thổ hà là
Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh đem
tráng đinh địa phương đánh cho tơi tả.
Năm Ất Dậu, tháng 6 (1285) Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quét sạch
50 vạn quân Mông Cổ ra khỏi cõi bờ.
Trấn Nam Vương Thoát Hoan của giặc
phải chui vào ống đồng cho quân khiêng
chạy thoát qua Pha Lũy Quan (Ải Nam
Quan) mà trốn về Tầu.
Năm Đinh Mùi, mùa Thu tháng 9
(1427) Liễu Thăng kéo quân vào nước
ta. Bình Định Vương Lê Lợi sai các
tướng Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Hiệp,
Đinh Liệt, Lê Thụ mai phục ở Chi Lăng
để đón đánh. Tướng Trần Lựu dẫn quân
đến Pha Lũy Quan (Nam Quan) để dụ
địch. Liễu Thăng tiến quân qua Pha
Lũy Quan. Trần Lựu giả thua, Thăng
đuổi theo đến Chi Lăng, bị phục binh
vây đánh. Quân Minh đè lên nhau mà
chết. Liễu Thăng bị chém ở Đảo Mã
Pha, ven núi Mã Yên.
Cũng năm ấy (năm Đinh Mùi -
1427), bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng
quẫn, kéo quân chạy về Tầu, đến Mã
Yên, Chi Lăng, Pha Lũy Quan (Nam
Quan) bị các tướng Lê Vấn, Lê Khôi bắt
sống cùng hàng vạn tù binh.
Năm Mậu Thân mùa Dựng tháng 10
(1788) Tôn Sỹ Nghị Tổng Đốc Lưỡng
Quảng nhà Thanh kéo quân vào nước
ta. Quân giặc chia làm ba ngả:
- Đề Tổng Vân Nam và Quý Châu,
họ Ô (sử không ghi tên) tiến vào theo
ngả Tuyên Quang.
- Tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi
Đống tiến vào theo ngả Cao Bằng.
- Tôn Sỹ Nghị và đề đốc Hứa Thế
Hanh tiến vào theo ngả Nam Quan.
Năm Kỷ Dậu, tháng Giêng (1789)
ngày 1 vua Quang Trung tiến quân đến
Thượng Phúc và Thanh Trì. Ngày 4 tiến
vào Thăng Long, quân giặc Thanh tan
vỡ, bọn đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên
phong Trương Sỹ Long, tả dực Thượng
Duy Thăng, tri phủ Điền Châu Sầm
Nghi Đống đều chết. Tôn Sỹ Nghị đang
đêm trốn khỏi thành, vượt sông mà
chạy, cầu gẫy, xác quân giặc đè lên
nhau nghẽn cả dòng sông.
Thời Pháp thuộc, năm 1884 nghĩa
dân Lạng Sơn nổi lên đánh giặc, có kế
hoạch bền bỉ lâu dài, dùng Ải Nam
Quan làm lối rút quân qua Tầu, khi yếu
thế. Dưới sự thống lãnh của anh hùng
Hoàng Đình Kinh, giữ vùng núi hiểm,
làm cho quân xâm lược ăn không ngon,
ngủ không yên. Ngày 6 tháng 7 năm
1888 Hoàng anh hùng hy sinh vì nước,
tưởng nhớ ông, dân chúng gọi dẫy núi
ông hy sinh là núi Cai Kinh.
Sau 1975, nương tựa thế lực nước
ngoài, cướp quyền quản trị quốc dân,
ngụy quyền bạo ngược vong bản vọng
ngoại, khiếp nhược run sợ trước Cộng
sản Trung-Hoa, đổi tên Trấn Nam Quan
(tên Nôm là Ải Nam Quan), thành Mục
Nam Quan, rồi Hữu Nghị Quan! Mục
Nam Quan hay Hữu Nghị Quan đều có
nghĩa là cửa ngõ Thuận Hòa, thân
thiện, tin cậy trong tình bạn bè, trái hẳn
với ý nghĩa Trấn giữ, ngăn ngừa sự xâm
lược đến từ phía Nam nước Tầu của Ông Cha.
SÁCH THAM KHẢO:
1. Dư Địa Chí - Nguyễn Trãi.
2. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Ngô Sỹ Liên.
3. Đại Việt Sử Ký Tiền Biên - Ngô Thì Sỹ và Ngô Thì Nhiệm.
4. Vân Đài Loại Ngữ -Quý Đôn.
5. Đại Việt Thông Sứ - Lê Quý Đôn.
6. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục.
CHÚ THÍCH:
(1) Năm Cảnh Hưng thứ 21 (1760) Lê
Quý Đôn sang sứ Trung Hoa, chép 2 bài ký
này đem về nước:
1. Trùng tu Nam Quan Ký của viên tuần
phủ Lý Công Phất nhà Thanh.
2. Tuần Duyệt An Nam Biên Ải Ký của
viên Án Sát Hoàng Nhạc Mục nhà Thanh.
Cả hai bài đều bao hàm ý tưởng xâm
lược của bọn quan liêu nước tự xưng là
Thiên Quốc mà chính chỉ là đế quốc - Phạm
Vũ và Lê Hiền chuyển nôm. Xin trích vài đoạn:
Bài Ký Trùng Tu Trấn Nam Quan
"Tỉnh Quảng-tây ở miền Nam
(Trung-quốc), núi cao, rừng tre nứa rậm,
các dân tộc Dao, Chàng ở lẫn lộn, đâu cũng
là nơi hiểm trở. Riêng cửa Trấn-Nam, phía
Nam trông sang Giao Chỉ, thật là nơi hiểm
yếu. Ở đó, có cột đồng của Mã Tân tức
(Mã-viện). Thế đất bằng phẳng, khoáng
đãng, không núi cao, rừng sâu hiểm trở; chỉ
trông cậy vào cửa quan này thôi. Nhà nước
có oai đức rộng khắp, thiên hạ thần phục,
các dân tộc bốn phương xa đều đến biên
giới xin vào nộp cống phẩm, trong ngoài
một thể thống.
Nước An Nam lại càng cung
thuận: do thế, cửa quan này, từ lâu không
được sửa sang, ngày càng đổ nát. Sứ bộ
sang cống, hàng năm phải đi về đường ấy.
Cửa quan này, tường cao lầu kín; nơi khám
xét, nơi đóng quân, nơi canh phòng đều
đầy đủ chỉnh tề. Cửa quan này, phía Nam
trông sang cột đồng; hai bên chót vót ngang
nhau, thực là cảnh đẹp trời Nam.
Bài Ký Đi Tuần Biên Ải An Nam
"Đọc thiên Đế điển (tức thiên Nghiêu
điển trong Kinh Thư) thấy câu "Trạch Nam
giao" (ở Nam-giao), tôi mới biết cái tên
Nam-giao đã chép ở kinh truyện từ lâu.
Thời nhà Hán sai Mã Phục ba (Phục ba
tướng quân Mã Viện) đi đánh phương Nam,
tuy chiến công ở Lãng-Bạc rất lớn, nhưng ở
đây, trên sương mù, dưới nước lụt, chim
điều bay qua không được; cũng phải lăn
xuống; nên sau khi đã dẹp yên, dựng ngay
cột đồng để đánh dấu biên giới đất Hán.
Hồi đầu nhà Minh cũng đã đặt quận
huyện; không bao lâu dân không phục, phải bỏ.
Đến triều ta dựng nước, thanh giáo
truyền đạt bốn phương những dân tộc
nhuộm răng, xâm mình đều đến triều phục.
Con cháu nhà Lê cũng sớm dâng biếu xưng phiên thần.
Sáng hôm sau, tôi lên núi Liên-Hoa; lớp
lớp trùng điệp, cây cối âm u, một đám mây
phủ; người đi không phân biệt được Đông
Tây, như lạc vào đường mê. Tôi tạm ngồi
nghĩ ở chỗ bậc đá; chợt thấy ánh sáng mặt
trời, người đi theo giục đi. Nửa bộ, nửa xe,
khi lên khi xuống, ước khoảng 30 dặm mới
đến đồng bằng. Đến đây, ngoảnh cổ lại
trông, thì các ngọn núi đều ở trong đám
mây cả. Đi ba ngày nữa mới đến phủ
Trấn-Yên. Hai châu: Qui Thuận và Tiêu
Trấn-Yên thuộc phủ này, đều giáp giới
Nam-Giao. Đất Nam-Giao và Trung-quốc
không liền thẳng một đường, chỗ thò ra chỗ
thụt vào tựa như nanh chó; những quan ải
cũ chưa đặt khắp, đã có quan ải mới xen
vào; vạch đất mà giữ, trong ngoài riêng hẳn.
Ngày mồng một tháng ba, đi từ phủ
Thái-Bình, đến mồng 6 đến quận. Tới đó,
cùng với quan Thái thú quận ấy, là ông họ
Đồ, trước hết đi duyệt Trấn-Nam-Quan ở
Bẳng-Tường. Xét ra Trấn-Nam-Quan cách
phủ trị 4 ngày đường; trong khoảng đó có
Mạc phủ doanh (phòng văn thư hành
chánh), có Thụ hàng thành (thành nhậm lễ
đầu hàng). Đó là con đường đi cống của
An-Nam phải đi qua. Các châu
Thượng-thạch, Tư-minh, Tư-lăng, quanh ở
phía Đông nam; các châu Thượng Long-ty,
Hạ Long-ty, Thượng Đống-châu, Hạ
Đống-châu, Yên-bình-châu, liên tiếp ở phía
Tây bắc. Vả lại, cửa quan Bình-nhi ở Hạ
Long-ty có một dòng sông nước đục, rộng
hơn trăm trượng, từ châu Thất-nguyên ở
Giao-chỉ chảy tới. Lại ở Thủy-khẩu quan,
có một con sông nước trong, rộng hơn 10
trượng, từ phủ Cao-bằng quận Giao-Chỉ
chảy tới. Hai con sông ấy hợp dòng ở trước
ty trị, chảy xuống phủ Thái-Bình. Một giải
giang sơn, trong ngoài hộ vệ; người đời
trước mở mang đất này, đã lập hai doanh:
Long-bằng và Quí-đạo; nhưng đất rộng
quá, mà quân lính thì ít.
Tôi xét hình thế cho rằng ba cửa quan là
nơi trọng yếu, xin tăng quân đóng giữ. Còn
các nơi khác, xét xem chỗ nào xung yếu.
hẻo lánh, tùy nơi khinh trọng mà bố trí, cốt
sao cho chỗ thưa, chỗ đông xen kẻ, nơi xa,
nơi gần vừa phải để củng cố biên phòng.
Trong khoảng 60 ngày, tôi đi khắp ba
quận, phía Tây đến tận Phúc-châu thuộc đất
Điền-nam; phía Đông đến tận Khâm-châu
thuộc đất Việt-đông (Quảng-Đông); phía
Nam đến Giao-chỉ - Xem xét cương vực
trong nước và ngoài nước, đại để Thượng
Đống-châu và Hạ Đống-châu, về phía
Đông tiếp giáp phủ Lạng-sơn của
Giao-Chỉ, phía Tây tiếp giáp phủ Cao-Bằng
cũng của Giao-Chỉ. Trong khoảng đất ấy,
có nơi có non cao núi hiểm làm giới hạn
thiên nhiên, có nơi đồng bằng nội rộng,
làng mạc liền nhau; đem trọng binh người
Hán, người Thổ đóng chen hết các nơi hiểm
yếu hoặc trên cạn, hoặc dưới nước. Kể các
quan ải, vừa cũ vừa mới, gồm 116 chỗ;
quân chính qui 1935 tên kể cả cấp chỉ huy,
quân thổ dân, 1170 người, khám xét nghiêm
ngặt, tuần phòng cẩn mật suốt dọc biên
cương dài 1700 dặm, tất cả là một bức
tường thành sừng sững.
Trần Lam Giang
(Khởi Hành số 58, Tháng 8.2001)

|