1-10-2019 | VĂN HỌC

Nguyễn Đức BạtNgàn

 NGUYỄN VY KHANH


     Nhà thơ Nguyễn Đức BạtNgàn
    (1948 - 27-9-2019)

Tên thật Nguyễn Đức Cẩm, sinh năm 1948 tại Vĩnh An, Thừa Thiên. Trước 1975 đã xuất-bản chung với Miên Hành và Trần Huyền Thoại tập Giã Từ Ân Phúc (1970), sau đó các bản thảo đem theo tị nạn ra hải-ngoại mới xuất-bản: Từ Giã Ngày (1971; xb 1989), Giữa Triền Hạn Reo (1972, Toronto; Làng Văn & TGXB, 1988) và Bình Minh Câm (1975, xb 1985). Sau khi định cư ở Canada, ông tiếp tục làm thơ và thêm tập bút ký tự truyện Thầm Lặng Trời, Thầm Lặng Đất.


Giữa Triền Hạn Reo, một trường ca lục bát gồm 320 câu, viết năm 1972 lý do cùng thái độ sáng tác đã nói trong bài bạt ở cuối tập. Trường ca tình-yêu khai mở ở đoạn 1:

“cỏ yên tỉnh ngủ trên đồi

dưới hồn rêu mục đâm chồi kết hoa

không lời như bóng mây qua

đây hoa bướm gọi an hòa đỉnh cây

cuối ngàn tình dụ say ngây

đành thôi nhức buốt sau này hạ phân

cùng nhau dăm ngụm tẩy trần

nhớ thuyền quyên khóc từ phần ban sơ

lưu linh tắt tiếng ai ngờ

xôn xao bãi cạn lấp bờ hồng nhan

đại hồ thổi nhịp hoài lang

sờn vai áo rách điêu tàn cõi xa

hiền ngoan đằm thắm lượt là

truyền thân hịch vọng yêu ma dại quằn ...”

Và kết thúc với đoạn 7:

“đất mềm dìu dịu thiên lương

em đơm hạt phúc cúng dường trăng hoa

thượng nguồn điệp điệp hào ca

lộc non bừng nhạy mượt mà chồi xuân

tuần hoàn đốt nến thanh tân

mưa nghiêng nghiêng sợi ân cần lả lơi

hân hoan ngạo thế kiêu đời

chắp tay hư hoại dâng lời cùng đinh

từ đây tâm hướng viễn trình

cánh thiên di vạn dặm tình tiêu sơ

qua thân thềm đá ơ hờ

qua truông với khói nhang chờ quạnh mông

từ nghi sắc giới song trùng

vườn sinh linh mạng tơ chùng nhã quan

bên bờ hạ tứ vừa sang

vầng dương em đợi cung đàn viễn âm”

Huế, 10-1972

(Bản điện tử TGXB, 2015, tr. 10-11 & 57-58)

Thi ca ở Nguyễn Đức BạtNgàn là tình tự với người yêu, người thân, bạn bè, và đồng thời biểu tỏ tâm thức trai thời loạn trước thực cảnh đất nước:

“bây giờ thì em trôi xa

giữa tim anh nở hàng bông trắng

trong bàn tay tìm lại lần về

trong đời anh men tình dậy trắng

hồn thì theo đêm khuya

em thì về biển cả / giữa vườn xanh nghe nước mắt đầm đìa

những lần sau là trăm lần vội vã

còn mốt mai em ngoài hiên tìm nhau

trên tàng lá thẫm

có anh chong theo hơi hướng quê nhà

có anh lao xao trên thời rong ruổi

nụ hôn thì sơn khê

anh ngã ngược trên tim mình

cùng xót xa em / giăng hàng mộng ảo

anh đứng thẳng trên đời mình

cùng tình yêu em giong buồm xa ngoài / hải đảo

bây giờ anh biệt xứ

nhưng làm sao anh tự nhận mình là kẻ / lưu đày

cũng như lần anh đi ngang da thịt em

nghe mồ hôi/ rỉ buồn / trách cứ

em có còn là tiếng chuông

trên đỉnh trán mòn theo đầu ngón tay khô

làm hình tượng tặng nhau vùng trời quá khứ

trên ngọn tóc còn vương se một ý tình hoài

anh sẽ còn gì không sau cuộc đời / lỡ dở

ngày mai là chuyến xe

với khi anh tìm môi em thì rượu

vẫn quay quắt / như đã bao giờ

anh uống cạn và / nghe núi sông

dâng đầy / một màu/ quạnh quẽ

cảm ơn em, u tối

ánh sáng có còn là vòng đai như vòng tay anh

ánh sáng có còn là bóng đêm

như sau bờ lung em

đang kiên nhẫn kiểm tìm

còn gọi em là một đời bất phục

cám ơn em, nồng nàn

cùng hoan lạc đầu tiên

trong máu xương chúng mình / tinh khiết

cùng mỏi mê như hoài vọng chuyền tay

anh tình nguyện làm tên giữ ngọn hải đăng

giữa biển đời lệ ứa

em hãy tự tay làm vòng hoa kết gió trên đầu

với băng giá đi theo

và cùng nhau như riêng phần / lần lữa

cám ơn em, tù đày

hãy trở về cùng anh như những lần đi xa / thuở trước

bởi vì trong tim anh luôn là một kẻ dại khờ

bởi vì trong máu anh / đã là tinh anh

trút dần / cho kẻ khác

xin hãy chào bóng anh cùng anh

xin hãy rời xa nhau giữa giờ hoan lạc

một đứa con là một chuyện buồn

em đã đến hợp tình / như sợi khói bay theo

một / đời / sống / khác”.

1971 (Từ Những Tấc Lòng Cũ)

“Cám ơn em, tù đày”, người tình hay tha nhân đồng nghĩa như nhau, mà dù biết vậy mà kẻ lụy tình vẫn mong kinh qua chốn đày ải con tim!

“lúc ngái ngủ nắng vỡ bờ lên mặt

tự trấn an như nước chảy theo triền

nơi quán chợ có tình em đem bán

đừng hỏi rằng làm sao anh vui

nghe lấp ló hình hài vừa tượng hình

rồi cũng như tao

mày sẽ ăn / sẽ ngủ/ sẽ thở

rồi mày thù hằn như đêm

mày căm hờn như tối

bước chân lạ trong khu vườn thánh

thật vàng son như đồng đen

và mặn nồng hơn bão tố

ta ngửa mặt tặng người

ta ngửa mặt tặng đời

tặng em chuyến tàu khởi hành chín giờ mai

hẹn em bên kia đèo năm ngoái

trời có khuya như em tự tình

trời có xưa nh7 em kể lể / một vì sao

động nhật nguyệt đã rơi vào bụng

chuột bỏ cống theo người trú ẩn

trên hầm rác hôm qua / có ta vừa khai tử

nhụy tình em cho gió bụi đời

thuở thủ thỉ đã chờn vờn cánh hạc

thuở hẹn hò còn ngời lại trong cây

thuở với nhau cầm tay thật ấm

thuở khánh kiệt như sáng mười đồng

thuở ấu thơ ta cho em cục đường

thì sá gì một vì sao đã rụng

thì sá gì cả chòm sao / đã rụng

nửa đêm hết lửa tau tìm mày

tìm mày trong túi áo

tìm mày trong túi quần

tìm mày trong đồ lót

tìm mày trên đỉnh mùng / cũng vô vọng

tại sao mày bỏ đi / không cho tao biết trước

có con đường sắt dẫn tàu xuống biển

anh bước lên làm hành khách một mình

em ẩn mặt đâu đây nghe mặn

có tìm theo tiếng hát mù lòa

tiếng hát nửa chừng đã thành định hệ

khi sóng vỗ mạn thuyền báo hiệu

đã ngút ngàn ngày tháng đem theo

trong thân ta có muối

và ngăn chia hồn sâu một gia tài

đã gió cuốn thời em tu tối

đã hút mình theo cánh chim bay

em hãy vui ôm tình đóng cửa

làm hành trang cho ý đại hùng

làm ân phúc cho bọt réo trong lòng

anh hoang phí nhìn hoài có thấy”

(Hành Trang Cho Sao Đại Hùng, Trích từ Thơ Tự Do Miền Nam, TẤQ, 2008, tr. 350-352).

Nhà thơ trừu tượng hóa chiến-tranh như sự thể không chối bỏ được, như kiếp người Việt-Nam hôm nay:

"11- khi bầy chim kia bay về đầy trời trắc ẩn

là vạn hồn oan trải lá hoang đường

có ta lũi sâu trong chiến hào / buổi giao tranh

tặng người / sự sống

em giữ nỗi lòng mình để làm vốn liếng mai sau

có thấy gì không trong đêm trăng mờ / đã khuyết

còn mơ gì không trong bóng tối mịt mùng

người thợ đóng hòm cuối đời mỏi mệt

tính nhẩm trên tay từng/ mỗi một / quan tài

ta còn nước mắt tặng thời đọa kiếp

em còn không em yêu dấu nồng nàn

mai cũng hết trong thân người

mai cũng đành như em giọt lửa

ta hiện hình đầy râu tóc

ta mỏi mê ta / ta yêu em

như bạo động / kẻ thù

ta hôn em như giờ / khai hỏa


17– em ngồi trơ vơ kết sợi tình hoài

như kiếp tằm trải hồn lên mặt lụa

ta đứng bên này giữa mảnh vườn âm u

em làm sao khai phá

những ưu tư làm ruột thắt lưng còng

em hiện hình trái phá / bắn ra ngoài đại dương

anh hóa thân tiếng nổ / nhuộm phai hàng tà dương

em có hẹn cùng đôi vồng lá cỏ

sáng mai nay sương phủ ướt mặt người

bên nớ bên này chừ xa vạn dặm

em ngồi không chờ đợi trong mình

(ta là ai trở về từ đêm khuya khoắt / ta là ai ra đi)

thân xác nhiễu nhương

trong bóng tối giữa ngày đầy mặt trời

giữa thân oan ngậm vành thân ái

em đứng trong đời / gõ hai bàn tay

từng âm vang em xanh mù mưa nắng

em thở hương mùa / bông cau / đầy thân ta

như chuyến tàu giữa biển theo hải đăng em phụ tình

như thuở ta thì thầm yêu em

như thuở ta vẽ vời

nỗi niềm gửi gió ngại ngần

giữa thân biến hồn trở về đại lục

hơi thở em đã mùa đông

hương phấn bay bay hàng song trắng

cho em vành khăn tang tự cuộc đời mình

như đầu tiên ta mĩm miệng cười làm dấu

em làm sao soi được mặt mình

khi ánh sáng đã đè ngang thân bóng

em làm sao thấy được nỗi lạ lùng

trong tim mình / với máu người / trú ẩn” – 1972

(Thuở Hẹn Người. Trích từ Thơ Tự Do Miền Nam sđd, tr. 352-353 & trang nguyenducbatngan).

Nhịp thơ Nguyễn Đức BạtNgàn thiết tha, kể lể, lời thơ trau chuốt, cẩn trọng với nhắc nhở và kỷ niệm nhưng đầy bất ngờ của thơ Tự do cộng với tâm thức muốn và chấp nhận sống cái hôm nay trong cõi nhân sinh đa đoan đầy mưu chước, bất ngờ!


Nguyễn Vy Khanh

Văn Học Miền Nam, Quyển Hạ
(Nguyễn Publishings, 2018)