12-7-2022 | VĂN HỌC

Hành trình tạp chí Chỉ Đạo

  TRẦN HOÀI THƯ đúc kết


Tạp chí Chỉ Đạo là cơ quan ngôn luận của Bộ Quốc Phòng VNCH. Các nhân viên tòa soạn là quân nhân. Ngay cả nhà văn Nguyễn Mạnh Côn muốn có chân trong tờ báo cũng phải chịu cấp bậc Thiếu úy đồng hóa.


Báo ra mắt vào năm 1956, khổ nửa trang giấy nhật trình. Chủ nhiệm Trung tá Nguyễn Văn Châu. Riêng vai trò chủ bút có đến ba người: Thời kỳ đầu (1956-1957) là Đại úy Ngô Quân, thời kỳ hai từ 1958-1961 là Thiếu úy đồng hóa Nguyễn Mạnh Côn và cuối cùng năm 1962 là nhà văn Kỳ Văn Nguyên...


Nhắc đến Chỉ Đạo, ta liên tưởng ngay đến nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Ông mới là người có công rất lớn trong việc khai dựng tạp chí Chỉ Đạo, biến tạp chí quân đội này thành một tạp chí có tầm vóc.


Chỉ Đạo là tạp chí đăng sáng tác đầu tiên của Doãn Dân (truyện ngắn “Cái Vòng”, 1959), và Duyên Anh (truyện “Hoa Thiên Lý”, 1959).


Hai người này về sau đều thành danh.


Nhà văn Duyên Anh đã so sánh Chỉ Đạo với Sáng Tạo, và cho rằng chính tờ Chỉ Đạo đã giúp ông thành công trên con đường văn nghiệp. Ông kể lại trong hồi ký “Nhìn Lại Những Bên Bờ”, như sau:

... Vùng hoạt động của tôi mới chỉ là tạp chí Chỉ Đạo, tạp chí không bày bán, muốn mua không có, tạp chí của độc giả có trình độ thưởng ngoạn cao. Tôi được độc giả chú ý nhiều từ Khúc Rẽ Cuộc Đời. Trong cuốn Call It Experience, văn hào Erskine Caldwell truyền cho những người muốn trở thành nhà văn kinh nghiệm này: Bạn hãy gửi truyện ngắn của bạn cho một tạp chí văn chương giá trị. Chừng nào người ta đăng truyện của bạn, đó là lúc bạn biết bạn có thể viết văn được. Tôi đã, bất ngờ, rơi vào trường hợp này, rơi thật nhanh nhờ nhà văn Trúc Sĩ ném tôi đúng chỗ. May mắn hơn, tạp chí Chỉ Đạo đã đăng liên tục truyện ngắn của tôi. Nếu Trúc Sĩ ném tôi vào tạp chí khác, Sáng Tạo của Mai Thảo chẳng hạn, họ, có thể, sẽ đăng truyện của tôi, nhưng không đăng liên tục, chắc chắn tôi không được độc giả chú ý nhiều. Tôi phải biết ơn Trúc Sĩ và tạp chí Chỉ Đạo. Trúc Sĩ đẩy tôi đến Chỉ Đạo, Chỉ Đạo cho tôi cơ hội thực hiện ước mơ.


Nhà văn Phan Nhật Nam kể lại về một bài thơ mà ông không bao giờ quên, bài thơ của Thủy Thủ đăng trên nguyệt san Chỉ Đạo được bạn ông, Phan Duy Nhân đọc trong căn phòng nhỏ Đà Nẵng lúc ông mới 16, 17 tuổi:

Tìm tình thương

Dựng nên đời

Không tro tàn bếp lạnh

Mỗi độ xuân sang rộn tiếng trẻ thơ cười

(Thủy Thủ)


Mắt anh rực sáng ánh lửa nhiệt tình, ngọn lửa chân thật mà người chỉ có được lúc đang tuổi trẻ – ngày chưa bị vướng bận bởi những hệ lụy, lo toan, mưu định bẩn chật của cuộc sống - khi đọc những lời thơ đằm đằm cảm xúc. Những câu thơ của Thủy Thủ (Trung úy Thái Trần Trọng Nghĩa, Binh chủng Biệt động quân, khóa 14 trường Võ Bị Đà Lạt, theo viên chỉ huy, Đại úy Phan Lạc Tuyên trốn vào mật khu cộng sản sau biến cố quân sự 11-11-1960 do Trung tá Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng cùng một nhóm sĩ quan sử dụng lực lượng Nhảy dù đảo chính, lật đổ chính phủ Tổng Thống Ngô Đình Diệm), đăng ở trang đầu số Xuân Nguyệt San Chỉ Đạo của Cục Tâm Lý Chiến QLVNCH được Dinh ** đọc to thêm lần thứ hai, tóc anh xòa xuống trán, những ngón tay đưa lên, run rẩy cảm xúc, nhiều kịch tính... Đám chúng tôi, tuổi 16, 17 ngồi nghe, nhìn anh thán phục, chen lẫn tự hào.

Phan Nhật Nam


Chú thích:

[*] Tựa của TOBT

[**] Nhà thơ Phan Duy Nhân tên thật là Phan Chánh Dinh.

Thơ Duyên Anh trên Chỉ Đạo


Sáng tác thơ đầu tiên của Duyên Anh xuất hiện trên Tạp chí Chỉ Đạo vào năm 1960. Đó là bài Bà Mẹ Tây Ninh. Sau đó thơ Duyên Anh xuất hiện khá đều đặn như: Con Chim Xanh Tình Ái, Xuân Mình, Em Bé, Con Đường Bướm Xôn Xang...

Bà Mẹ Tây Ninh


Tôi về làng Trảng Sơn

Thăm bà mẹ gặp ở Sài Gòn

Dạo ấy hàng dừa bên bờ ao trái hãy còn non

Và vú sữa chưa ngọt mùi vú sữa

Đến chẳng hẹn hò

Mẹ mừng vui hớn hở

Mi rưng rưng chơm chớp, dạ xôn xang

Thoáng ngập ngừng nhìn mái lá tàn hoang

Chân dừng lại: Mắt già mắt trẻ

Quê miền Đông sao mà nghèo nàn thế

Rừng nối rừng đất liền đất xác xơ

Đón mạ xanh không biết có bao giờ

Bông lúa mẩy của Cà Mau, Đồng Tháp

Đường gập ghềnh,

con ngựa gầy mệt nhọc

kéo lê xe thổ mộ vài người

Ở đây ít nói

ít cười

Buồn như nắng hoàng hôn

chầm chậm nhỏ


xuống núi Bà

mờ mịt phía trời xa

Giàn mồng tơi gió lay sụp đổ

Tiếng ru nức nở

Nhịp võng sầu tênh

Ù ơ... Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi

Nghìn xưa trăm trứng phân ly

Nghìn sau Rồng với Tiên chia hai bờ

Ù ơ...


Mẹ muôn thuở đẹp thơ

Sừng sững Bà Đen, huy hoàng thánh địa

Biển có khi nào lên nguồn không nhỉ?

Mà máu đào xuôi ngược lại về tim

Máu về tim, máu đoàn viên

Anh em hận thù, anh em phiêu bạt

Mẹ xoè đôi tay tưởng chừng mất mát

Vẫn còn nguyên mười ngón

Mẹ ơi!


Đan nhau, mẹ bỗng bùi ngùi

Đất nghèo quê khổ, đời đời héo hon

Mẹ già thèm bát canh ngon

Mải mê chém giết, bầy con tuyệt tình

Mẹ Tây Ninh

Ôi, bà mẹ Tây Ninh

Con mẹ đây, người thợ gặt oan khiên

Người thợ cấy mông mơ

giữa nơi rừng hoang,

đồng chua lầy lội


Con mẹ đây

tương lai chờ đợi

Trầy bả vai cho những bát canh già

Cuốc cày đâu, để con vỡ đất nhà

Gieo mầm sống, mầm nhân sinh mãnh liệt

Hỡi nhừng trăm năm trải dài oanh nghiệt

Sẽ thăng hoa một hạnh phúc khôn cùng

Sẽ núi hôn đồi

biển gọi hồn sông

Sẽ lời dừa non ru ngoan vú sữa

Sẽ lục bát ngô,

ca dao lúa

Trống rộn đêm xuân ngây ngất hội đình

Con nằm nghe nắng trách trời xanh

Nghe cuộc đời hồi sinh phơi phới

Cuộc đời bao la,

nồng nàn hương mới

Đá biết tương tư,

sỏi vỡ môi cười

Mẹ ơi, tha thiết lắm rồi

Mất gì, không mất tình người Việt Nam


Ấy ai khắc khoải dặm ngàn

Về vun dân đạo, bắc giàn yêu thương

Khi hoa nhân ái rợp đường

Người quê hương với quê hương rộn ràng

Mẹ thôi buồn

Con quên mưa gió

Cửa bốn phương bỏ ngỏ

Hỏi nhau chuyện tình yêu

Con lại về thăm Trảng Lớn

Thấy mẹ nằm ngủ thiu thiu


Ruộng nhà con gái xanh mơn mởn

Bầy cháu tung tăng chạy thả diều

1960

Trần Hoài Thư đúc kết

(Nguồn: Thư Quán Bản Thảo số 99, tháng 7-2022)