|
Cao Đông Khánh(..1941 - 12.12.2000) | Lê Phổ(2.8.1907 - 12.12.2001) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Tạp chí Chỉ Đạo là cơ quan ngôn luận của Bộ Quốc Phòng VNCH. Các nhân viên tòa soạn là quân nhân. Ngay cả nhà văn Nguyễn Mạnh Côn muốn có chân trong tờ báo cũng phải chịu cấp bậc Thiếu úy đồng hóa.
Báo ra mắt vào năm 1956, khổ nửa trang giấy nhật trình. Chủ nhiệm Trung tá Nguyễn Văn Châu. Riêng vai trò chủ bút có đến ba người: Thời kỳ đầu (1956-1957) là Đại úy Ngô Quân, thời kỳ hai từ 1958-1961 là Thiếu úy đồng hóa Nguyễn Mạnh Côn và cuối cùng năm 1962 là nhà văn Kỳ Văn Nguyên...
Nhắc đến Chỉ Đạo, ta liên tưởng ngay đến nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Ông mới là người có công rất lớn trong việc khai dựng tạp chí Chỉ Đạo, biến tạp chí quân đội này thành một tạp chí có tầm vóc.
Chỉ Đạo là tạp chí đăng sáng tác đầu tiên của Doãn Dân (truyện ngắn “Cái Vòng”, 1959), và Duyên Anh (truyện “Hoa Thiên Lý”, 1959).
Hai người này về sau đều thành danh.
Nhà văn Duyên Anh đã so sánh Chỉ Đạo với Sáng Tạo, và cho rằng chính tờ Chỉ Đạo đã giúp ông thành công trên con đường văn nghiệp. Ông kể lại trong hồi ký “Nhìn Lại Những Bên Bờ”, như sau:
... Vùng hoạt động của tôi mới chỉ là tạp chí Chỉ Đạo, tạp chí không bày bán, muốn mua không có, tạp chí của độc giả có trình độ thưởng ngoạn cao. Tôi được độc giả chú ý nhiều từ Khúc Rẽ Cuộc Đời. Trong cuốn Call It Experience, văn hào Erskine Caldwell truyền cho những người muốn trở thành nhà văn kinh nghiệm này: Bạn hãy gửi truyện ngắn của bạn cho một tạp chí văn chương giá trị. Chừng nào người ta đăng truyện của bạn, đó là lúc bạn biết bạn có thể viết văn được. Tôi đã, bất ngờ, rơi vào trường hợp này, rơi thật nhanh nhờ nhà văn Trúc Sĩ ném tôi đúng chỗ. May mắn hơn, tạp chí Chỉ Đạo đã đăng liên tục truyện ngắn của tôi. Nếu Trúc Sĩ ném tôi vào tạp chí khác, Sáng Tạo của Mai Thảo chẳng hạn, họ, có thể, sẽ đăng truyện của tôi, nhưng không đăng liên tục, chắc chắn tôi không được độc giả chú ý nhiều. Tôi phải biết ơn Trúc Sĩ và tạp chí Chỉ Đạo. Trúc Sĩ đẩy tôi đến Chỉ Đạo, Chỉ Đạo cho tôi cơ hội thực hiện ước mơ.
Nhà văn Phan Nhật Nam kể lại về một bài thơ mà ông không bao giờ quên, bài thơ của Thủy Thủ đăng trên nguyệt san Chỉ Đạo được bạn ông, Phan Duy Nhân đọc trong căn phòng nhỏ Đà Nẵng lúc ông mới 16, 17 tuổi:
Tìm tình thương
Dựng nên đời
Không tro tàn bếp lạnh
Mỗi độ xuân sang rộn tiếng trẻ thơ cười
(Thủy Thủ)
Mắt anh rực sáng ánh lửa nhiệt tình, ngọn lửa chân thật mà người chỉ có được lúc đang tuổi trẻ – ngày chưa bị vướng bận bởi những hệ lụy, lo toan, mưu định bẩn chật của cuộc sống - khi đọc những lời thơ đằm đằm cảm xúc. Những câu thơ của Thủy Thủ (Trung úy Thái Trần Trọng Nghĩa, Binh chủng Biệt động quân, khóa 14 trường Võ Bị Đà Lạt, theo viên chỉ huy, Đại úy Phan Lạc Tuyên trốn vào mật khu cộng sản sau biến cố quân sự 11-11-1960 do Trung tá Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng cùng một nhóm sĩ quan sử dụng lực lượng Nhảy dù đảo chính, lật đổ chính phủ Tổng Thống Ngô Đình Diệm), đăng ở trang đầu số Xuân Nguyệt San Chỉ Đạo của Cục Tâm Lý Chiến QLVNCH được Dinh ** đọc to thêm lần thứ hai, tóc anh xòa xuống trán, những ngón tay đưa lên, run rẩy cảm xúc, nhiều kịch tính... Đám chúng tôi, tuổi 16, 17 ngồi nghe, nhìn anh thán phục, chen lẫn tự hào.
Phan Nhật Nam
Chú thích:
[*] Tựa của TOBT
[**] Nhà thơ Phan Duy Nhân tên thật là Phan Chánh Dinh.
Sáng tác thơ đầu tiên của Duyên Anh xuất hiện trên Tạp chí Chỉ Đạo vào năm 1960. Đó là bài Bà Mẹ Tây Ninh. Sau đó thơ Duyên Anh xuất hiện khá đều đặn như: Con Chim Xanh Tình Ái, Xuân Mình, Em Bé, Con Đường Bướm Xôn Xang...
Bà Mẹ Tây Ninh
Tôi về làng Trảng Sơn
Thăm bà mẹ gặp ở Sài Gòn
Dạo ấy hàng dừa bên bờ ao trái hãy còn non
Và vú sữa chưa ngọt mùi vú sữa
Đến chẳng hẹn hò
Mẹ mừng vui hớn hở
Mi rưng rưng chơm chớp, dạ xôn xang
Thoáng ngập ngừng nhìn mái lá tàn hoang
Chân dừng lại: Mắt già mắt trẻ
Quê miền Đông sao mà nghèo nàn thế
Rừng nối rừng đất liền đất xác xơ
Đón mạ xanh không biết có bao giờ
Bông lúa mẩy của Cà Mau, Đồng Tháp
Đường gập ghềnh,
con ngựa gầy mệt nhọc
kéo lê xe thổ mộ vài người
Ở đây ít nói
ít cười
Buồn như nắng hoàng hôn
chầm chậm nhỏ
xuống núi Bà
mờ mịt phía trời xa
Giàn mồng tơi gió lay sụp đổ
Tiếng ru nức nở
Nhịp võng sầu tênh
Ù ơ... Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi
Nghìn xưa trăm trứng phân ly
Nghìn sau Rồng với Tiên chia hai bờ
Ù ơ...
Mẹ muôn thuở đẹp thơ
Sừng sững Bà Đen, huy hoàng thánh địa
Biển có khi nào lên nguồn không nhỉ?
Mà máu đào xuôi ngược lại về tim
Máu về tim, máu đoàn viên
Anh em hận thù, anh em phiêu bạt
Mẹ xoè đôi tay tưởng chừng mất mát
Vẫn còn nguyên mười ngón
Mẹ ơi!
Đan nhau, mẹ bỗng bùi ngùi
Đất nghèo quê khổ, đời đời héo hon
Mẹ già thèm bát canh ngon
Mải mê chém giết, bầy con tuyệt tình
Mẹ Tây Ninh
Ôi, bà mẹ Tây Ninh
Con mẹ đây, người thợ gặt oan khiên
Người thợ cấy mông mơ
giữa nơi rừng hoang,
đồng chua lầy lội
Con mẹ đây
tương lai chờ đợi
Trầy bả vai cho những bát canh già
Cuốc cày đâu, để con vỡ đất nhà
Gieo mầm sống, mầm nhân sinh mãnh liệt
Hỡi nhừng trăm năm trải dài oanh nghiệt
Sẽ thăng hoa một hạnh phúc khôn cùng
Sẽ núi hôn đồi
biển gọi hồn sông
Sẽ lời dừa non ru ngoan vú sữa
Sẽ lục bát ngô,
ca dao lúa
Trống rộn đêm xuân ngây ngất hội đình
Con nằm nghe nắng trách trời xanh
Nghe cuộc đời hồi sinh phơi phới
Cuộc đời bao la,
nồng nàn hương mới
Đá biết tương tư,
sỏi vỡ môi cười
Mẹ ơi, tha thiết lắm rồi
Mất gì, không mất tình người Việt Nam
Ấy ai khắc khoải dặm ngàn
Về vun dân đạo, bắc giàn yêu thương
Khi hoa nhân ái rợp đường
Người quê hương với quê hương rộn ràng
Mẹ thôi buồn
Con quên mưa gió
Cửa bốn phương bỏ ngỏ
Hỏi nhau chuyện tình yêu
Con lại về thăm Trảng Lớn
Thấy mẹ nằm ngủ thiu thiu
Ruộng nhà con gái xanh mơn mởn
Bầy cháu tung tăng chạy thả diều
1960
- Lữ Quỳnh, Bạn Tôi Trần Hoài Thư Nhận định
- Bức Tranh Quyên Sinh Trần Hoài Thư Tản mạn
- Ân Tạ Của Một Người Vừa Thoát Chết Trần Hoài Thư Tản mạn
- Dòng sông qua những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ Trần Hoài Thư Nhận định
- Nguyễn Phương Loan Người thi sĩ có tâm hồn vô lượng Trần Hoài Thư Hồi ức
- Hành trình tạp chí Chỉ Đạo Trần Hoài Thư Giới thiệu
- Sự Mầu Nhiệm của Nghệ Thuật Trần Hoài Thư Tản mạn
- Hành trình của ký giả Lô Răng Trần Hoài Thư Nhận định
- Thăm vợ vào ngày giáng sinh Trần Hoài Thư Thơ
- Quà Giáng Sinh 2021 của Blog THT: Thêm 72 số báo Văn của năm 1969, 1970, 1971... Trần Hoài Thư Giới thiệu
Độc giả và những người làm một tạp chí văn chương (Trần Phong Giao)
VĂN và ông Trần Phong Giao (Nguyễn Lệ Uyên)
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê)
Tổng Quan Về Nhóm Sáng Tạo (Nguyễn Vy Khanh)
Nhìn Lại Một Số Tạp Chí Miền Nam
(Nguyễn Văn Lục)
Ý Thức: Đời Sống Của Tôi (Nguyên Minh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Các Tạp Chí Văn Nghệ Miền Trung Thời Chiến Tranh: Tuy Hòa và Sóng (Nguyễn Lệ Uyên)
Phan Nhự Thức và Tạp Chí Trước Mặt
(Khắc Minh)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
• Trò chuyện với dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |