22-5-2025 | VĂN HỌC

Kim Mao Sư Vương Và Tôi

  TÔ THẨM HUY

Tưởng nhớ nhà văn Trần Hoài Thư (1942 - 27.5.2024)

*


Thư Quán Bản Thảo số 79 (bìa trước và bìa sau)

Trần. Hoài. Thư. Tôi làm quen với ba chữ ấy ngót đã trên dưới 50 năm. Qua tạp chí Văn. Trong những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70. Tháng 5 năm 1975 tôi di cư sang Mỹ. Những năm kế tiếp, làm gì kiếm ra sách báo tiếng Việt ở xứ này mà đọc. Lèo tèo ở các chợ người Việt mới bắt đầu thành lập, thỉnh thoảng có thấy bày bán một vài sách cũ in lại ở Mỹ. Tôi xoay qua đọc báo chí, sách vở tiếng Anh. Và học thêm, ôn lại cái vốn chữ Hán lưa thưa của mình, qua sách vở cũng bằng tiếng Anh. Cái tên Trần Hoài Thư, cùng với tên của các nhà văn miền Nam khác, như thế từ từ dần chìm vào quên lãng. Cuộc sinh nhai cơm áo đưa đẩy tôi vào chuyện bù loong đinh ốc, không có nhiều cơ hội tiếp xúc với sinh hoạt báo chí Việt Nam. Cho đến ngày Cao Đông Khánh xuất hiện trên văn đàn với tập thơ Lịch Sử Tình Yêu, năm 1981. Tập thơ ấy đã kích động, đã kéo tôi trở về với văn chương tiếng Việt. Và tôi lại làm quen với các tờ Văn, Văn Học, Hợp Luu...


Nhưng với Thư Quán Bản Thảo thì mãi đến năm 2014 tôi mới biết đến nó.


Rất tình cờ. Hôm ấy tôi bước vào thư viện của Viên Thông Tự, một ngôi chùa sư nữ ở vùng Đông Bắc Houston, tìm đọc kinh kệ. Bên cạnh các pho kinh sách là một tờ tạp chí, Thư Quán Bản Thảo Số 59, bìa trước có giòng chữ Số Đặc Biệt Tưởng Niệm Phùng Thăng. Hai chữ Phùng Thăng gợi lên trong đầu tôi bao kỷ niệm, dạt dào tình cảm yêu mến: Hai chị em, bà Phùng Thăng và chị bà, Ni Cô Trí Hải Phùng Khánh, và những truyện dịch Bắt Trẻ Đồng Xanh, Câu Chuyện Dòng Sông, Sói Đồng Hoang một thời làm say mê giới trẻ chúng tôi... Tôi bàng hoàng ngồi đọc những bài viết rất thú vị về Phùng Thăng, biết thêm nhiều điều về thuở thơ ấu lúc Phùng Thăng còn cắp sách đến trường, về phong cách dịu dàng, trang nhã, về một tâm hồn sáng trong, cao quý, về một người cô giáo duyên dáng và minh triết. Và càng bàng hoàng hơn khi biết đến cái chết đau thương, cái cách kinh hoàng mà con người tài hoa, mát lành như sương sớm ấy đã từ giã trần gian. Và từ đấy, sợi giây giữa TQBT và tôi đã nối kết mối liên lạc.


Từ đấy, cái tên Trần Hoài Thư đã một lần nữa trở thành một phần đời sống của tôi. Tôi viết thư, hỏi xin anh một số sách mà Thư Ấn Quản đã in lại. Hễ cứ xin một quyển, thì được gửi hai, ba quyển khác. Dường như con người yêu mến văn chương ấy lúc nào cũng hào hứng, tha thiết. Gặp được kẻ nào có lòng quý mến văn chương miền Nam thì anh hăm hở muốn đem cả cái kho sách mà anh đã dày công sưu tập ra in lại, từng cuốn một, để tặng kẻ ấy. Mà cái cách in của anh thật có một không hai trên cõi đời này. Không một ai, không có một cách nào mà người ta có thể in, bằng phương pháp thủ công nhưng khôn ngoan, tài tình như thế, với cách biến chế những vật dụng có khi đã bị phế thải, hay chẳng liên quan gì đến việc in ấn, thành những dụng cụ cắt xén, dán keo, gấp bìa, khâu chỉ rất tài tình, hiệu nghiệm. Ngoại trừ Trần Hoài Thư. Nhưng xin tạm gác chuyện ấy sang một bên. Bây giờ xin kể đôi chuyện dính líu đến Phùng Thăng và người bạn chân tình của Trần Hoài Thư: nhà văn Phạm Văn Nhàn.


Chúng tôi dăm ba người bạn yêu mến văn chương thường mỗi sáng thứ Bảy gặp nhau uống cà phê, hàn huyên tâm sự: Phan Xuân Sinh, Cái Trọng Ty, Lương Thư Trung... Một buổi sáng nọ cách đây hơn 2 năm có một người cao lênh khênh chống gậy đi vào quán. Anh Phan Xuân Sinh, người mà tôi thường nói đùa là quen hết tất cả mọi người ở trần gian, giới thiệu đây là Phạm Văn Nhàn, người cùng với Trần Hoài Thư làm tờ Thư Quán Bản Thảo. Anh Cái Trọng Tỵ thì giới thiệu với anh Nhàn là tôi là tác giả bài viết về tập thơ Có Một Mùa Trăng Xa Như Biến của anh. Anh Nhàn khen bài viết của tôi hay.


Rồi câu chuyện đưa đẩy thế nào tôi không nhớ, Phạm Văn Nhàn nhắc đến Phùng Thăng, đến bài Trần Thiện Đạo phê phán, chê bai vở kịch Những Ruồi mà Phùng Thăng dịch từ vở Les Mouches của Sartre. Ngay cả cái tựa nhan đề sách, cũng đã bị buộc tội là dịch chữ mà không dịch văn, đem chữ •LES dịch là NHỮNG, còn Mouches thì dịch là Ruồi. Tôi lên tiếng phản đối lời kết tội ấy, rằng chữ NHỮNG trong tiếng Việt không chỉ dùng để chỉ số nhiều, mà còn được dùng như một mỹ từ pháp để bày tỏ sự tán thán, mà điển hình là những câu trong Kiều. Rằng Những Ruồi là cái tựa hay tuyệt vời. Anh Nhàn hứng chí ‘ra lệnh’ cho tôi phải viết một bài bênh vực cho Phùng Thăng. Từ đấy, qua mối giao tình ngày càng thắm thiết hơn giữa anh Nhàn và tôi, tôi càng biết thêm và quý mến hơn con người của Trần Hoài Thư. Sống hết mình với cuộc đời.


Một hôm, trong khi ngồi tán chuyện văn chương sau vườn nhà anh Phạm Văn Nhàn, tôi rủ anh lên New Jersey thăm Trần Hoài Thư. Anh đồng ý ngay. Thế là chúng tôi rủ thêm người thơ Cái Trọng Ty làm bộ ba tam sên Thiên, Thổ, Thuỷ gồm Nhàn, Ty, Huy từ Houston bay lên. Từ Virginia thì anh Phạm Cao Hoàng và Lãm Thuý, một người bay, một người lái xe, cùng lên tham dự. Sáu anh em chúng tôi đã có một hai ngày thật hạnh phúc bên nhau đầu tháng Năm, 2017. Và dịp ấy đã cho tôi cơ hội để gặp gỡ Trần Hoài Thư, người mà mới gặp tôi đã nghĩ ngay trong đầu phải gọi tên anh là Kim Mao Sư Vương, và hiền nội của anh là chị Nguyễn Ngọc Yến. Chị Yến là người có giọng nói trong trẻo đặc biệt. Một giọng Nam rất dễ thương, dễ mến. Mỗi câu thường bắt đầu bằng một chữ 'dạ', ngân dài vừa đủ để người nghe thấy được cái chất ngất ngây ngọt lịm của giọng con gái Cần Thơ cành vàng lá ngọc. Lễ độ mà vẫn ngọt ngào. Ân cần mà vẫn phép tắc. Cô tiểu thư con nhà giáo có khác.


Hôm chúng tôi vào nursing home thăm, chị linh hoạt và vui khác thường. Bộ nhớ của chị vốn bình thường không tỉnh táo lắm hôm ấy bỗng hồi sinh trở lại. Chị cười nói duyên dáng. Nghe anh Thư giới thiệu Cái Trọng Ty chị nhận ra ngay, dù trước đây chưa gặp bao giờ, chỉ vì Thư Ấn Quán đã in tập thơ đầu tay Có Một Mùa trăng Xa Như Biển của anh Ty. Thấy không ? Có việc làm gì của Thư Ấn Quán ngày trước mà không có bàn tay của chị chăm sóc ? Lại còn dí dỏm khen anh Ty lúc ấy đang đội cái mũ lưỡi trai là “manger photo” làm anh Ty phổng cả mũi. Tôi nghe anh Nhàn kể thuở mới quen nhau chị hay hát bài Buồn Tàn Thu cho anh Thư nghe, nên tôi hát trước vài câu, và chị đã hát theo trọn bài. Lại còn kể cho tôi nghe giai thoại về Lý Bạch nhảy xuống sông vớt trăng mà chết đuối. Tôi tiếc đã không được gặp chị mươi năm trước. Ngồi nghe chị nói chuyện hẳn thú lắm. Nghe chị hát chắc là còn thanh thoát, thú vị gấp bội. Anh Thư sắp thức ăn lên khay cho chị. Chị tự cầm đũa gắp lấy. Anh Thư đứng bên cạnh vỗ tay. Cảnh tượng vừa buồn cười, vừa rơi nước mắt. Giọt nước mắt yêu thương, tha thiết. Và với tôi, có lẽ riêng tôi, chua xót.


Dịp này, tôi cũng đã nhìn thấy một khía cạnh khác mà có lẽ ít ai thấy như tôi, kể cả những người thân thiết với anh lâu năm: Con người Toán học của Trần Hoài Thư. Tôi với anh cùng là con nhà Toán. Dân Toán chúng tôi thường nhìn sự việc bằng con mắt see the forest for the trees. Trái với quan niệm thông thường, cho là con mắt ấy đặc biệt ở khả năng phân tích, ở cách nhìn analysis. Thật ra thì ngược lại, nó chuyên tìm cách tổng hợp, sắp xếp những phần riêng biệt, rời rẽ lại với nhau một cách có ý nghĩa. Cách nhìn synthesis. Và bằng con mắt Toán học ấy, kẻ cầm bút làm thơ, viết văn dễ dàng như chơi, thống khoái như thở ấy, đã chế biến ra các dụng cụ giúp anh thành hình những quyển sách đẹp không thua nhà nghề dùng máy tối tân. Chẳng hạn như máy gấp bìa sách. Đôi lúc dòng chữ in ra không ngay hàng với mép giấy. Trần Hoài Thư chỉ cần để một tờ vellum trên kẻ các dòng ngang dọc là có thể cắt xén, gấp gáy thẳng boong.



Cái “xưởng” in của Thư Ấn Quán vững vàng sống được đến ngày hôm nay một phần là nhờ ở cái tài chế biến ấy của Kim Mao Sư Vương. Cái máy in này mua có mấy chục đồng đem về chỉnh sửa lại tốt hơn mới. Cái máy kia mua về chế biến lại in giấy đôi đỡ tốn tiền giấy. Chẳng có gì mà Kim Mao Sư Vương sợ cả. Cái gì chưa biết thì anh mày mò, tìm tòi cho đến khi biết. Anh như con tê giác lùi lũi đi thẳng về đằng trước. Chuyện gì cũng dám đưa tay vào, hay đúng hơn, đưa vai vào gánh vác. Lâu lâu từ New Jersey anh gọi điện thoại về Houston vấn kế tôi. Có cái máy scan bóng đèn 12 VDC bị cháy mà đã discontinued, không có cái để thay, anh gọi cho tôi hỏi chỗ mua transformer để biến điện 120 VAC sang DC, rồi gắn thêm cái quạt máy nhỏ bên cạnh cho bớt nóng. Tôi bày anh cách khỏi mua transformer chi cho tốn tiền mà chỉ dùng bóng LED G4 v.v...


Nhưng viết về Trần Hoài Thư mà không nhắc đến tấm lòng thuỷ chung, chi chút săn sóc cho chị Yến thì thật là thiếu sót. Mỗi ngày. Cái đáng kể là ở chỗ ấy. Làm việc ấy trong đôi ba ngày, đôi ba tháng, cũng không khó lắm. Nhưng ba năm, thì cái khó nhọc của mỗi một ngày ấy lại mỗi ngày một nặng gánh. Phải qua cái cầu ấy mới hiểu được phải phấn đấu thế nào. Đây cũng là một điều mà tôi chia sẻ đặc biệt với anh tận đáy lòng. Bởi vì tôi cũng đã qua cái cảnh gạt lệ mà đưa song thân vào nursing home vì không có cách nào khác, đã qua cảnh 7 năm trời mỗi ngày vào nursing home cơm nước, tắm rửa cho song thân. Mỗi ngày.


Những lúc nghĩ đến cảnh anh một mình cặm cụi nấu nướng cho chị mà tôi chua xót, mủi lòng. Thế nhưng những lúc nghĩ đến cảnh anh một mình dùng toàn thân ấn xuống lưỡi dao cắt giấy, hay loay hoay dưới hầm dán bìa, khâu chỉ, mà vẫn sáng tác, mà thơ vẫn tuôn chảy, mà chân vẫn bước mặc cho gout nó hành, thì tôi lại thêm phấn khởi. Và tôi mỗi lúc nghĩ về anh là mỗi lúc tôi cứ tin là Kim Mao Sư Vương mình đồng da sắt. Trần Hoài Thư có thể ngã, nhưng không bao giờ chịu thua, luôn luôn đứng dậy. Vịn vào chính mình mà đứng dậy. Chẳng cần đến ‘lục bát’ hay ‘mấy bát’ gì để vịn cả. Con thằn lằn ấy đã chọn nghiệp. Nghiệp văn chương.


Tô Thẩm Huy

Nguồn: Trần Hoài Thư Vẫn Còn Mãi Đam Mê
Thư Quán Bản Thảo số 79 Tháng 4-2018
Chủ Đề Đặc Biệt Do Phạm Văn Nhàn Và Bằng Hữu Thực Hiện