11-03-2015 | VĂN HỌC

Viên Linh

  VÕ PHIẾN


    Nhà thơ Viên Linh

Hồi 1982, khi cuốn Thủy mộ quan vừa xuất bản, đọc sách xong, nhân dịp viết thư cho Thanh Nam, tôi thắc mắc: Có bài thơ hay tôi đã biết qua, không hiểu sao Viên Linh loại bỏ không cho vào thi tập này, uổng quá. Chẳng hạn bài “Nhớ Sài Gòn” mà tác giả đã cho nghe qua điện thoại năm 1975, khi tôi còn sống ở Minneapolis, với hai câu đầu:

Đêm qua mơ thấy Sài Gòn

Gối đầu trên sách, gáy mòn tận xương.

Thanh Nam cho rằng “Viên Linh làm thơ quá kỹ, mỗi lần đăng lại thơ là một lần sửa lại” (Thư ngày 25-9-82). Như vậy có nghĩa là sau khi làm ra thơ, ông chọn lọc, sửa chữa và có khi còn bỏ luôn bài nọ bài kia không vừa ý?

Trước đó tôi chưa bao giờ biết chuyện Viên Linh tự sửa thơ mình kỹ như thế nào. Sau lá thư của Thanh Nam, tôi tò mò tìm hiểu. Quả như lời Thanh Nam nói. Tháng 3-1976, Viên Linh có gửi cho xem một bài thơ mới làm xong ngày 2-1-76, tức bài ‘Hương’. Đoạn đầu thế này:

Xa nhau, thôi nhé tuổi vàng

Lá rơi trên tuyết hồn tan dưới đường

Nhớ gì nơi ấy — cố hương

Tóc xanh em gái, dặm trường trung du.

Lộ cao con mắt sương mù

Hồn xa Nam bộ mùa thu có về?

Về sau, khi được in vào Thủy mộ quan, bài thơ nọ xuất hiện dưới hình thức như sau:

Cố hương


Xa nhau thôi nhé thu vàng

Lá rơi trên tuyết lòng tan dưới đường

Nhớ gì nơi ấy cố hương

Tóc xanh em gái dặm trường trung du.

Lộ cao con mắt sương mù

Hồn xa Nam bộ mùa thu có về?

Nhan đề bị đổi, nhiều chữ thay đổi, nhiều dấu chấm câu bỏ đi, cách phân đoạn cũng khác trước.


Thơ sửa quá kỹ, Thanh Nam bảo có những bài đọc lần đầu “thích thú vô cùng”, sau sửa đổi đọc lại “thấy mất đi cái cảm giác tươi mát”. Lê Huy Oanh viết về thơ Viên Linh cũng nhấn mạnh “được viết rất kỹ, rất công phu”, và cũng ghi nhận là “không hiếm những lúc cái tân kỳ bị thay thế bởi sự cầu kỳ nó khiến cho bài thơ thành ra (...) thiếu tự nhiên.”


Cái quá kỹ (cũng như cái quá ẩu và mọi cái quá khác) có thể có chỗ đáng tiếc và tất nhiên có chỗ đáng khen của nó. Nhân đó, lại xin kể về thời kỳ mới bỏ nước ra đi, Viên Linh ở tiểu bang Virginia, tôi phiêu dạt sang tiểu bang Minnesota. Các mùa đông đầu tiên ở Bắc Mỹ, trong tuyết giá lạnh lẽo, trong cảnh buồn nhớ quê hương, thỉnh thoảng tôi gọi điện thoại sang, yêu cầu Viên Linh đọc thơ cho nghe, những bài thơ ông mới làm chưa đăng báo nào. Một lần người anh thi sĩ ấy đọc bài thơ thương nhớ người em tu sĩ còn kẹt lại trong nước, với mây câu chót:

Mưa đưa tôi lại Sài Gòn

Trán căng nhiệt đới hồn còn Đông Dương

Gặp em trở lại lầu chuông

Dang tay nện xuống hư không một chày.


Chuông không tiếng đã bao ngày

Nghe quen em tưởng chiều đầy âm thanh.

(‘Lầu chuông’)

Ngẫm lại, trong tâm hồn hoang dã của mình chưa mấy khi vang lên tiếng chuông tiếng mõ; thế mà lần ấy cái âm hưởng gây nên do một chày nện xuống hư không ở lầu chuông nọ ngân nga mãi, thấm thía mãi thật lâu bền. Tôi có cảm tưởng đó là nhờ ở cái tử công phu, cái quá kỹ của nhà thơ, có cảm tưởng rằng tứ thơ độc đáo đã được hàm dưỡng, ấp ủ nhiều ngày đến chín muồi trong tâm tưởng và được diễn đạt trong từng chữ cân nhắc thận trọng, chứ không thể là kết quả của một phóng bút nhanh nhẹn, “tự nhiên”.

Sở trường sở đoản của Viên Linh quấn quít nhau như thế.


Ở Viên Linh còn một điều không thể bỏ qua, là cái mưa.

Có thể nói mưa tuôn liên miên trong cả thơ Viên Linh lẫn cuộc đời Viên Linh.


Mưa xa cách:

Cơn mưa chia biệt tháng ngày

Vẫn rơi tầm tã lòng này đêm đêm.

(‘Lầu chuông’)

Mưa suốt từ thuở ấu thơ đến giờ:

Lá vàng cọng uá trên cây

Đời mưa tự những vừng mây thiếu thời.

(‘Tâm ảnh’)

Mưa dưới... âm ty (!):

Chiều nay mưa dưới âm ty

Ta nghe kiếp trước thầm thì hỏi han.

(‘Thơ bệnh’)

Mưa trên các cuộc tình:

Nhớ em rồi Cúc Hoa xưa

Đêm nay dưới ngói trời mưa tầm tầm.

(‘Đêm trường’)

Trong thi ca xưa nay vẫn có mưa, thường là mưa vừa đủ nhẹ để gây mơ, để nên thơ, đủ làm mờ chân trời, đủ dấy lên nỗi nhớ nhung man mác v.v... Trong thơ Viên Linh thì không thế. Đây là mưa tầm mưa tã, mưa xối mưa xả. Mưa làm chìm ngập hết những ảo tưởng của nhân thế. Cái mưa như thế mà xối xuống những cuộc tình duyên thì... ôi thôi! Trong thơ Viên Linh không hề có thứ ái tình hồn nhiên tươi sáng như trong Nguyễn Nhược Pháp, đã đành. Cũng không có tình thơ tình mộng như ở Lưu Trọng Lư, không có thứ tình nồng nàn cuồng nhiệt như ở Xuân Diệu, không phải thứ tình cay đắng đầy uất hận của Vũ Hoàng Chương. Thậm chí nó cũng không thất bại một cách lãng mạn, văn vẻ như trong thơ Nguyễn Bính.

Ở thơ Viên Linh, ái tình trong mưa là những cuộc tình duyên khó khăn, trắc trở, ngang trái. Những cuộc tình duyên mệt mỏi và hẩm hiu. Những gần gũi nặng trĩu ưu tư, chất chứa ẩn ức kỳ bí. Trong các mối tình ấy, mưa cứ triền miên như sự đeo đuổi của số kiếp nghiệt ngã.


Chắc chắn, các nhà phê bình căn cứ vào chủ đề (critique thématique) trong trường phái Paul Weber chẳng hạn sẽ khai thác ý nghĩa phong phú của cái mưa Viên Linh, sẽ lần dò tìm đến cội nguồn của ám ảnh từ thuở bé của thi sĩ, sẽ tìm thấy bao nhiêu là chuyện thâm thúy, hay ho. Như đã tìm thấy ở những con thiên nga trong hồ của Valéry, ở con chim thảm thiết của Mallarmé, ở chiếc quả lắc đồng hồ của A. de Vigny, ở khung trời rực đỏ của Hugo, ở bầu sữa đắng cay của P. Claudel, v.v...

Cái ý hướng vô thức nọ (intentionnalité ỉnconsciente) của nó là thế nào, chúng ta chưa truy tầm được. Chỉ biết thưởng thức cái sức mạnh của nó truyền vào những câu thơ đẹp đẽ.


Ông Lê Huy Oanh cho rằng “'Đêm trường’ là một trong những bài thơ tuyệt tác.” Tôi chịu ông quá. Trong ‘Đêm trường’ có cả cái quá kỹ, cái tân kỳ táo bạo, lẫn cái ám ảnh của cơn mưa từ trong tiềm thức, của một bí ẩn có thể truyền cho nghệ phẩm sức sống lâu dài.


Ngoái nhìn lại, tôi thấy mình đã trích dẫn, đã dựa dẫm vào Lê Huy Oanh nhiều quá. Quả thực không mấy khi đọc phê bình mà khoái như khi gặp bài của ông Lê. Ông đọc kỹ, nhận xét tinh, và nói thì thẳng băng. Ông khen bài này tuyệt tác, bài kia là kỳ tác. Ông bảo toạc ra tác giả này ông rất thích nhưng “có cả trăm bài luộm thuộm, dở đến không chịu nổi”, tác giả nọ tài lắm nhưng có những chỗ “rất nhàm tai” v.v... Ông Lê như thế, không mê ông sao được. Ông thành thực, sốt sắng đến nỗi có lúc ông định sửa cả nhan đề bài thơ hộ tác giả. Chẳng hạn bài ‘Đêm trường’ của Viên Linh, ông muốn thi sĩ gọi tên bài là ‘Cúc Hoa’. Chỗ này thì tôi xin can. Thôi, ông ạ. Chúng ta là người ngoài, đừng nên can thiệp “kỹ” quá.


Ngoài ra Lê Huy Oanh còn bảo “Lục bát Viên Linh quả thật có nhiều chỗ có sức quyến rũ mạnh mẽ.” Tôi lại chịu nữa. Ông Lê bảo một tác giả có được chừng mười bài thơ hay đã là quí giá lắm rồi, huống hồ thơ xuất sắc của Viên Linh được nhiều hơn con số đó. Tôi cũng lại chịu nữa.


2 -1993

Võ Phiến

Văn Học Miền Nam - Thơ, trang 3155-3166
(Văn Nghệ, 1999)

CHÚ THÍCH:


— Các chỗ trích dẫn Lê Huy Oanh trong bài nhận xét đều lấy từ bài phê bình thi tập Thủy mộ quan của Viên Linh đăng ở báo Đồng Nai số ra ngày 25-8-1983 ở Caliíornia.

— Các bài thơ trích tuyển đều lấy từ phần “Dư tập” của Thủy mộ quan là phần dành cho những bài thơ đã đăng báo ở trong nước trước 1975 tại Việt Nam, ngoại trừ bài “Lầu chuông”. Bài sau này viết ở hải ngoại sau 1975, lẽ ra không nên có mặt trong sách, tuy nhiên được trích dẫn là để làm sáng tỏ thêm ý kiến trong một đoạn ở bài nhận xét trên đây.

ĐÊM TRƯỜNG


Nhớ em rồi Cúc Hoa xưa

Đêm nay dưới ngói trời mưa tầm tầm

Nhớ em vèo cái thu âm

Hồn theo bóng ngoại phân thân chín từng.


Nhớ em ly rượu còn lưng

So đôi đũa mộc cười bừng cơn say

Phải anh rồi phải anh đây

Bữa cơm hai bóng một ngày phần dương.


Nhớ anh chưa Cúc mắt vàng

Cúc xanh mi Cúc biếc hường trái tim

Cúc đen đâu đó Cúc mềm

Vùi anh trong bụng Cúc hiền như dao.


Năm năm đời trú mái sầu

Thời gian phai nhạt những màu yêu đương

Nhớ em lần lữa chiếu giường

Đêm nay lại một đêm trường như xưa.


SINH NHẬT


Hôm nay năm tận, Sài Gòn

Tôi nghe khiếp hãi tâm hồn già nua

Giật mình con quỉ ban trưa

Tiếc mùa hoan lạc hái chưa đủ hời.


Hôm nay trời đất có tôi

Trên ba mươi tuổi làm người lãng quên

Xuân hồng, một góc thiếu niên

Năm năm mê mải những miền hoài nghi.


Trên ba mươi tuổi ù lỳ

Đêm về kéo cửa ngày đi kiếm mình

Cảnh đời, một cõi u minh

Cảnh tôi thấp thoáng bóng hình những ai.


U mê hết tháng năm dài

Chân trong lối kiệt hồn ngoài bến không

Hôm nay năm tận, bàng hoàng

Giục thêm tiệc rượu ngồm ngoàm đĩa vơi.


Nhìn ra cảnh cỗi, riêng tôi

Trong hiên viễn phố thấy đời buồn lây.


THƠ BỆNH


Lúc này hình đất tượng cây

Đời ta như nước chảy đầy bãi xa

Chiều rồi lòng mở không ra

Mênh mông trong ngực mùa hoa hải tần.


Khói um kín mộng thanh tân

Hình ta sụp đổ mấy lần trong gương

Bên kia bóng vội lên đường

Đằng sau mặt thủy trùng dương sóng dồi.


Nước xa cuồn cuộn ra khơi

Sâu trong tâm thể có đôi giọt gần

Bãi sầu trời ngập đến chân

Dương gian la lún nửa thân còn gì.


Chiều nay mưa dưới Âm Ty

Ta nghe kiếp trước thầm thì hỏi han.


LầU CHUÔNG


Tháng Tư úng thủy đầu mùa máu tuôn

Tặng em tôi, Chơn Pháp Nguyễn Hữu Hiệu, để nhớ những ngày Vạn Hạnh


Nhận tin em một năm rồi

Thành xưa đã đổi con người đã thay

Cơn mơ chia biệt tháng ngày

Vẫn rơi tầm tã lòng này đêm đêm.


Mưa lầy con phố bôi tên

Em chôn tầm vóc thanh niên giữa đời

Nhớ em biển sách làm khơi

Thả thân trôi giạt với lời muôn phương.


Nhớ em đêm tựa lầu chuông

Rung con tim nhỏ nghìn đường âm thanh

Em yêu lá ở trên cành

Yêu chim trong gió yêu thành vắng quân.


Em yêu miếu mộ linh thần

Yêu đầu không mũ yêu chân lột giầy

Yêu người không thiết đi dây

Yêu nhà văn hóa đi Tây lại về.


Em yêu lòng trúc ý tre

Yêu kinh vô tự như bè yêu sông

Em yêu Camus lạnh lùng

Đạt Ma qua biển Ngộ Không giữa trời.


Yêu anh phóng đãng lầm nơi

Văn chương sai lúc thân dơi lộn chiều

Em yêu cuộc sống em yêu

Lầu chuông gác sách mộng điều tuổi xanh.


Hôm nay túi vải bên mình

Em tôi bán dạo trong thành phố quen

Ầm vang trong trí cơn điên

Ném thân anh giạt tới miền hư sinh.


Hơn ba mươi, mộng tan tành

Tay xương quét lệ hoen quanh mắt mờ

Thấy em lầm lũi hơn xưa

Loanh quanh ngõ dưới dật dờ lối trên


Em tôi không sách không đèn

Một đầu tư tưởng bôi lem nghĩa đời

Đêm nay tầm tã mưa rơi

Tỉnh ra tôi thấy mặt trời trắng tinh.


Thấy trăng mọc lúc bình minh

Thấy người lưu xứ lênh đênh Quê Nhà

Thấy tôi đập kính soi hoa

Trên cây nhân thế la đà trái đen.


Thấy tôi nguyền rủa thánh hiền

Cầm dao giết Phật giả điên đốt chùa

Nhớ mưa xưa nhớ mưa xưa

Tháng Tư úng thủy đầu mùa máu tuôn.


Mưa đưa tôi lại Sài gòn

Trán căng nhiệt đới hồn còn Đông Dương

Gặp em trở lại Lầu Chuông

Dang tay nện xuống Hư Không một chày.


Chuông không tiếng đã bao ngày

Nghe quen, em tưởng chiều đầy âm thanh.


Washington D.C., 1979

(Trong Thủy Mộ Quan, thi phẩm Viên Linh, Virginia 1982)