Nhà văn Nguyễn Minh Nữu
Sinh ngày 6-1-1950 tại Hà Nội. Truyện và thơ đã đăng trên các tạp-chí Văn, Khởi Hành, Nghệ Thuật... và đã xuất-bản (dưới hình-thức ronéo) tập truyện Những Sợi Máu Giăng Ngang (BanMê: Con Người, 1972) và các truyện đã được đăng trên tạp-chí như Một Thoáng Mây Phiêu Bạt (Văn, giai phẩm số 8, 16-1-1973), Giòng Nước Mắt Xanh (Văn, giai phẩm số 13, 17-4- 1973),...
Trước 1975, ông tham gia Phong trào Du ca và là lính tác chiến, đã cùng Nguyễn Quyết Thắng và Đoàn Văn Khánh chủ trương thành lập Cơ sở văn-nghệ Con Người ở Ban-Mê-Thuột. Thơ ông sau 1975 mới được tuyển in lại trong Lời Ghi Trên Đá (TpHCM: Văn Nghệ, 2006) với 3 phần Thơ tặng con diều giấy, dế than và cá lia thia, Lang bạt và Ký thác – phần đầu gồm những bài trước 1975.
Một Thoáng Mây Phiêu Bạt, truyện đầu tay đăng báo, kể chuyện Nhự, một người lính, gia-đình di cư từ Bắc vào, đồn trú nơi xa xôi cao nguyên luôn phải trăn về một “chỗ trở về”. Nhất là khi đến ngày giỗ thân sinh mà con cái tản mác nhiều nơi. Bản thân anh “chỉ xin một điều là chết đâu chôn đó” như tâm sự với đồng đội. Người có gia-đình thì có nơi để trở về khi ra khỏi cửa trại, còn Nhự nhìn bạn vì phải “còn ngồi nán lại bên doanh trại buồn thiu, heo hút mà mong được một chỗ trở về. Chỗ trở về dầu được ăn cơm uống nước hàng ngày hay chỉ là chỗ trở về khi vĩnh cửu, khi thịt nát xương tan".
Dĩ nhiên Nhự luôn mơ đến một nơi chốn bình yên, như chàng nói với người yêu tên Thúy: “Ở một khu vườn có trồng trăm thứ cây ăn trái, có hồ nuôi cả, có thân yêu, có ruột thịt, có tất cả những gì trên đời người ta cho là hạnh phúc. Với chuỗi ngày chỉ có hưởng nhàn, có sách, có kẻ lông mày cho ái thê. Là em đó, Thúy”. Vẫn chỉ là giấc mơ, dù chân thành, đơn sơ, vì quân thù tấn công đồn trại, Như bị thương, may mà có Thúy săn sóc cho. Tỉnh dậy, có Thúy, chàng lịm đi “Nhự mơ hồ thấy những đợt sóng biển, những dợn mây bay, thấy yêu dấu, thấy hạnh phúc. Thấy trong tầm tay của mình cả mảnh đất trở về. Chỗ trở về mơ ước, cầu khẩn hoài hoài trên cái đất lạ quê người mà Nhự trôi dạt bấy lâu nay”.
Chuyện mang tính tự sự và mang tính thuyết phục một văn tài.
Giòng Nước Mắt Xanh là một câu chuyện tình khác và có tính tự sự. Tôi - tên Nguyên, gần 14 tuổi đã yêu Minh Hằng từ những năm đệ Ngũ trung học, ban đầu là tình chị em (Hằng đệ Nhị), tình-yêu “trong sạch và tinh khiết” rồi xa cách nhau. Bảy năm sau, tôi đi lính lên vùng Cao nguyên, Hằng thì chồng vừa tử trận. Trong thời-gian đó Nguyên đã tình cờ gặp lại Ngọc, em của Hằng, trong động điểm và đã giúp nàng trở về đường ngay nhưng không với tình yêu vì đã trao cho chị nàng. Vẫn yêu Hằng, với Nguyên, dù trở về trong tâm tưởng với áo trắng nữ sinh hay áo tang, “Hằng cũng có đôi mắt thật trong sáng. Như một dòng sông, à không, phải coi như một dòng suối mới phải, dòng suối màu xanh”. Biết gia-đình Hằng mở quán và có đời-sống tạm ổn, Nguyên “vẫn thường chắp tay nguyện cầu hàng đêm, cầu nguyện với những thần linh cao cả nhất trên cõi đời, mong sao dòng suối xanh sẽ tìm được một cửa bể thật rộng, thật rộng thế thôi” (Trích từ bộ Văn Miền Nam, Thư Ấn Quán, tập 2, tr. 757, 765).
Truyện ngắn này ghi lại một nét nào đó của Nguyễn Minh Nữu, nhưng không là tất cả - Tiếc là chúng tôi không tìm lại được tập Những Sợi Máu Giăng Ngang đã đọc và đã mất trong cuộc biến động và phần thư sau 1975, để có thể trình bày cái nhìn hiện thực dữ dội của những người trẻ nhập cuộc, như nhà văn và người lính thường trực trong trận mạc.
Nguyễn Minh Nữu nhà thơ của ngôn-ngữ thường ngày chất chứa tâm tình thời đại chiến-tranh đảo điên. Thơ ông đặc-biệt được biết đến qua phổ nhạc của Nguyễn Quyết Thắng và Phan Ni Tấn.
Tuyển tập Lời Ghi Trên Đá ghi lại một số bài thời trước 1975 ở phần đầu - Thơ tặng con diều giấy, dế than và cá lia thia. Lời thơ khá đơn thuần như tâm hồn nhà thơ trên những bước vào đời:
“Tôi đứng nhìn / Một con chim
Bay đi tìm / Một con chim
Tôi thấy buồn / Lên võng nằm
Tay chống cằm / Mong tới rằm
Xem trăng” - 1963
(Cô Đơn, tr. 13)
Và đến với người, một cách ngần ngại:
“Đây là thư viết cho em
Viết ngầm trên gối, giữa đêm
Chữ run và giấy mực lem
Gói trọn lòng tôi với em.
Tóm lại, tôi xin làm quen.
Thưa em" - 1965
(Tình Thư, tr. 14)
Cho nên đánh than thở, mà cũng chỉ nhẹ nhàng thôi:
“Thôi em rời cụm mai hồng.
Đèn lên phố vắng lạnh không chuyến về
Ngõ trời hé cửa đam mê
Ngày đan trái nhớ đêm lê bước dài
Chân buồn gõ nhịp heo may
Cánh tiên chép vội qua ngày trối trăng
Tôi còn lại với thở than
Mặt con trai đẫm hai hàng tủi thân” - 1967
(Gửi cô bán cà phê, Nguyễn Quyết Thắng phổ nhạc 1969, tr. 15)
Một người nữ, rồi một người khác, nhưng cùng muộn màng:
“Chim xanh gọi trái cây hồng
Thương con tóc rối hai giòng ăn năn
Xuống rồi, chiều ngủ đất cằn
Đan vòng lưới bắt căn phần số thôi
Còn em là cụm mây trời
Chắt chiu đá núi ru tôi muộn màng” - 1968
(Giòng Ăn Năn, Nguyễn Quyết Thắng phổ nhạc 1969, tr. 16).
Dĩ nhiên nhà thơ không thể sống ngoài không-gian của quê-hương đang chiến-tranh và mất mát bạn hữu:
“Bỏ đi rất xa để thấy mình gần lại
Mặc cảm nào ngần ngại mãi anh em
Xác sẽ chết nhưng hồn người đã chết
Ta còn đây, mỗi lúc lạ nhau thêm” - 1968
(Bỏ Đi Rât Xa, tr. 17).