|
Hoàng Trang(..1938 - 18.8.2011) | Nguyễn Thiện Tơ(29.7.1921 - 18.8.2022) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
CÀ MAU, Việt Nam (NV) – U Minh dưới con mắt của người mới khẩn hoang là vùng đất nê địa, bí hiểm, U linh U cốc với nhiều giai thoại về con người bản địa, về cá tôm muông thú và một vài kiểu tín ngưỡng khá kỳ dị.
Gồm U Minh Thượng và U Minh Hạ, do con sông Trèm Trẹm rạch đôi làm ranh giới: U Minh Thượng thuộc tỉnh Rạch Giá xưa (Kiên Giang ngày nay) và U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau.
Sự giàu có của tài nguyên thiên nhiên có thể nói gọn: có phải ở ba tầng sinh thái. Phía trên lá cây rừng với chim muông và mật ong. Ở mặt đất có loài bò sát rất phong phú, thêm loại “than đá non” có trữ lượng rất lớn, chưa khai thác. Và dưới nước là tôm cá.
Dạo trước, có một vài trang truyền thông đưa tin: Tỉnh Cà Mau vừa tổ chức một hội thì gọi nôm na “hội thi cá.” Ban tổ chức đã chọn chấm giải nhứt cho một con cá lóc nặng “kỷ lục” 3.2 ký lô. Sự kiện này khiến giới “ngư học” nông dân ở miền Tây bị chạm tự ái. Họ cười mỉa, hỏi khó: Không biết mấy “cha” giám khảo là dân xứ nào mà lại “dốt” về cá quá đỗi!
Ngay thời điểm hiện tại, dân câu nhiều khi bắt được con cá lóc nặng cỡ 6-7 ký lô không phải là hiếm. Mấy chục năm về trước, cá lóc sống trong rừng U Minh có con nặng đến cả chục ký có hơn. Đó là chưa nói đến loài cá lóc bông, thứ này mỗi con nặng cỡ 20 ký lô thường thấy ở nhiều địa phương như Đồng Tháp, An Giang, Hậu Giang, Cà Mau… Vẫn còn nhỏ hơn nhiều so với bản quán của nó. Con của cá lóc bông, gọi ròng ròng lúc chưa tách bầy, đã lớn cỡ cái cán mác của dân đi rừng. Giới ngư học thế giới gọi loài cá này là “quái vật sông Mekong,” vì xuất xứ của nó là ở vùng nước này .
Cá lóc sống thọ phần nhiều là ở vùng rừng sâu, ít khi con người đặt chân đến. Cá sống lâu thuộc hàng “cụ,” người địa phương gọi “cá lóc nái” hay “cá mọc râu,” vì trước miệng trên của nó mọc hai cái râu hơi dài. Cá đồng, bao gồm ở vùng rừng U Minh, thuộc nhóm cá nước ngọt. Ở vùng rừng tràm, nơi làng nước dớn có màu đỏ sậm như hổ phách, cá lóc có màu đen tuyền, cá trê “lên” màu vàng nghệ rất đẹp, thuộc “top hoa hậu” trong loài cá đồng, nhứt là cái nọng mập ú ở hàm dưới, béo… nhức nhối, “một trăm đám cưới không bằng hàm dưới con cá trê,” là vậy.
Hồi đầu năm 1970, tôi có một chuyến phiêu lưu “vượt lộ, băng rừng” từ Trà Vinh về vùng U Minh Hạ. Đến rạch Cái Tàu, men theo con Kinh Đứng luồn trong những cánh rừng già. Những cây tràm gốc cỡ 3-4 búng tay người lớn, lâu ngày bị các thứ dây choại, dớn leo bám um tùm như đám lá ngụy trang của những họng súng đại bác thần công. Con kinh này hình thành từ thời Pháp thuộc, rạch một đường thẳng xuyên rừng từ rạch Cái Tàu đến bờ biển Tây của Vịnh Thái Lan. Lâu ngày, nó bị lạn dần, bị lá mục và cỏ cây mọc chồng lên vùi lấp nên mất dấu tích.
Cả nhóm bị lạc suốt hai ngày đêm. Hết gạo cùng lương khô, phải ăn cá thay cơm. Nếu không có cá không biết sẽ xoay xở ra sao giữa cánh rừng thâm u đầy rắn rít và muỗi mòng này. Trên đường đi, thỉnh thoảng lại gặp vài con cá lóc nái độ 2-3 ký lô mình mẩy đầy thương tích. Có lẽ bị chim tha về tổ, nhưng vì con cá nặng quá nên bị rớt dọc đường.
Ngạc nhiên làm sao, giữa chốn thâm sơn u cốc này lại xuất hiện một cái đìa, dài độ năm, sáu chục thước, nước trong đìa đã thành một thứ sình sền sệt, đục ngầu do cá quậy. Cá quá nhiều, coi kỹ toàn cá trê vàng. Thêm một đỗi, lại gặp thêm một cái đìa, rồi hai cái đìa cá nữa cũng tương tự. Có điều lạ là mỗi cái là một loại cá khác nhau: cái toàn cá lóc, cái toàn cá trê và cái toàn cá rô. Chẳng lẽ loài cá cũng… phân biệt chủng tộc?
Sau này, tôi được những người già sống ở U Minh giải thích, vì cá xứ này sanh sôi quá nhiều, khi rừng cạn nước chúng phải tìm về những vùng trũng như lung bàu, ao đìa trú ẩn chờ mùa mưa đến. Lý do cá khác loại không thể sống chung được là vì nếu cá trê mà chung đụng với bọn cá rô thì hàng gai nhọn trên lưng của con cá rô sẽ nẹt cho trầy da tróc thịt. Còn cá trê mà nhập chung với bầy cá lóc thì cái miệng toang hoác tham ăn của bọn này đâu dễ gì buông tha.
Rất tiếc là không gặp cái ao cá sấu nào, vì hồi còn nhỏ tôi từng nghe mấy ông lão kể lại, ngày trước dân đi rừng thỉnh thoảng lại phát hiện những ao cá sấu lập “căn cứ” giữa rừng sâu. Câu chuyện bắt cá sấu ở rừng U Minh Hạ của cố nhà văn Sơn Nam trong tập truyện “Hương Rừng Cà Mau” là chuyện có thật, có “cầu chứng.” Biết đâu bây giờ trong cảnh rừng già thâm u vẫn có vài ao cá sấu còn sót lại?
Tuy sanh đẻ ở vùng rừng U Minh này, nhưng từ bé tôi đã phải sống ly hương do thời cuộc loạn lạc. Sự tình cờ chạm mặt những đìa cá “đông trùng trùng như quân Nguyên” này, âu cũng là lời chào hỏi sơ giao với một đứa con đi xa lâu ngày, nay trở về quê xưa, chốn cũ.
Chiến tranh ngày càng ác liệt, nhiều xóm làng dân chúng phải rút hết vào rừng sâu. Nhiều đận hết gạo, bữa “cơm” toàn là cá và cá. Cá hấp, cá nướng, cá luộc, cá rang muối, cá nấu canh chua trái giác với đọt choại… ăn riết phát ngán, muốn sanh bệnh. Đói quá, dân phải kéo nhau đi đến những vùng khá yên tĩnh để sản xuất tự túc.
Tôi tham gia một nhóm người đến Hòn Đá Bạc, thuộc xã Khánh Bình Tây, Cà Mau, làm ruộng và đóng đáy. Làm đáy gặp mùa cua gạch son (khoảng Tháng Chín, Tháng Mười Âm Lịch), đến con nước kéo đáy lên, tôm cua vô tới cứng “đục” (phần chót của miệng đáy, chứa tôm cá lọt vào). Gặp cua cỡ hơn nắm tay người lớn, gọi “cua nhèm” thì mở miệng đục xả bỏ trở lại biển. Cua nhiều quá mức, chỉ chọn bắt cua gạch son. Bỏ mối cho dân lái cua, rất có giá. Gạch cua màu đỏ son, béo hơn lòng đỏ trứng vịt muối, ăn nhiều quá đầu óc cứ lơ mơ, chuếnh choáng như say rượu.
Mùa mưa mới là mùa săn bắt cá chính của dân U Minh, rất đông vui. Có hàng chục cách săn bắt cá, chỉ kể ra đây vài cách: cắm câu, giăng lưới, đặt lờ, lọp, đặt trúm, còn gọi “kéo trúm,” v.v. Dân chuyên nghề giăng lưới cá rô, mỗi người thường dùng từ 200 đến 250 “tay” lưới. Giăng câu, cắm câu chủ yếu bắt cá lóc, cá trê. Bắt cá trê dùng mồi trùn, loại này thích mồi có mùi tanh và “tĩnh,” vì cá trê chỉ nuốt mồi chớ không táp, nhõ nhẽ như con gái. Bắt cá lóc dùng mồi “chạy,” là cá sặc nhỏ, còn sống. Móc lưỡi câu ngang lưng thả xuống nước, cá chạy rèn rẹt, gây tiếng động nhử bọn cá lóc tham ăn.
“Em hỏi anh đêm nay đi đâu? Anh nói rằng anh đi giăng câu. Anh đi giăng câu trên chiếc xuồng câu. Anh có cây sào. Anh chống ào ào chống ào ào…” Lời bài hát “Giăng Câu” tươi vui, hài hước của nhạc sĩ Tô Thanh Tùng gợi lại hình ảnh sinh hoạt của người nông dân đồng ruộng, nay rất nhiều người còn thuộc lòng.
Lờ dùng bắt cá sặc, loại sặc bướm, đươn bằng tre, trúc, hình tựa cái bánh ú, hai bên hông có hai cái hom. Khi đặt lờ xuống nước, người ta rắc một ít mồi, thường là cơm nguội trộn cám. Một người có thể đặt từ 200 đến 300 cái lờ mỗi ngày. Cách bắt cá này nhàn nhã, không cực nhọc thức khuya dậy sớm hơn mấy nghề khác. Cá quá nhiều, bán không hết người ta xẻ khô, làm mắm ăn dần, đem bỏ mối ngoài chợ.
Đây là những ngày làng xóm đông vui, rộn ràng nhứt, diễn ra từ buổi hừng đông cho đến tối mịt. Trên mỗi chiếc xuồng câu đều có một chiếc bếp cà ràng, đốt khói để un muỗi. Đẹp nhứt là những buổi hoàng hôn khi “mây tím xây thành,” khi những chiếc xuồng câu nhẹ lướt êm đềm trên những kinh, rạch tỏa làn khói mỏng vương vất từ chiếc bếp cà ràng, vẽ lên một khung cảnh lãng mạn và thơ mộng như bức tranh thủy mặc.
Mùa giáp Tết, khi gió chướng sòng ngọn thổi rừng bông sậy uốn éo, cũng là lúc rừng bắt đầu cạn nước. Ở những con lạch, lung, bàu… bắt đầu phơi bày lồ lộ một bức tranh… cá, nhiều đến mức người ta phải bối rối, không biết phải bắt đầu từ đâu. Cá đủ loại, cựa quậy trong những vũng nước chật hẹp, phơi lưng chờ… người bắt. Những chỗ nước còn sâu, cá “ục” như nước cơm sôi, chỉ lấy rổ xúc một cái cũng gần đầy cả rổ! Năm, bảy đứa con nít “tả xông hữu đột” chưa tới nửa buổi đã hốt đầy mấy bao nào cá lóc, cá trê rồi dùng cây gánh về. Số còn lại, dành cho mấy tốp người sau đến hưởng… lộc trời.
Đến khi rừng khô ráo, người đi “ăn ong,” tức lấy ong mật, đôi khi bị sụp chân xuống cái “ổ” cá. Là khi vào mùa rừng rút nước, lũ cá không kịp thoát ra sông rạch, phải tìm đến những chỗ trũng còn một ít nước để trú ẩn. Lâu dần bị lá cây phủ lên, bùn trên bề mặt khô đi, cá chỉ sống nhờ lớp bùn sền sệt dưới đáy và khoét những cái lỗ phía trên để thở. Nhiều cái ổ cá to cỡ một tấm đệm. Đủ loại cá, thêm rùa, rắn ở lẫn lộn.
Theo tài liệu cũ để lại, vào hồi đầu thập niên 1950 của thế kỷ trước, tính riêng diện tích rừng U Minh Hạ, Cà Mau, là 200,000 hécta. Còn con số bây giờ? Không dám nhắc đến, vì nó sẽ gây một cú sốc lớn cho bạn. U Minh bây giờ không còn là U Minh nữa, nó đã gần như bị san phẳng thành một “vùng trắng.” Rải rác còn sót lại là những khoảnh rừng da beo mà người ta gọi bằng những từ hay ho “rừng đặc dụng.” Rừng tuyệt diệt thì tôm cá tuyệt diệt. Quy luật sinh tồn mang yếu tố tác động sinh học, cộng yếu tố nhân bản.
Có dịp về quê chơi, kêu đứa em ra chợ mua ít khô cá khoai về nhâm nhi rượu đế. Lát sau nó đem về một mớ cá chỉ nhỉnh hơn đầu đũa. Biết biển cũng đã cạn kiệt. Thèm ăn cá lóc đồng nướng trui, kêu đứa em gái đi chợ, nó nói bây giờ hiếm lắm, toàn cá lóc nuôi. Dễ hiểu, đồng ruộng bây giờ toàn “ăn hóa chất,” thuốc trừ sâu thì con cá còn sống được ở đâu? Là những ao nuôi, với thực phẩm công nghiệp và cho ra một sản phẩm phẩm chất quá tệ.
Vài ký ức của U Minh một thời đã xa, với tôi đó là sự nuối tiếc về bao điều gần gũi, gắn bó trong đời sống chúng ta như hơi thở, như cơm ăn nước uống. Vậy mà giờ đây nó lại lần lượt mất đi từng ngày, thậm chí cả từng giờ. Mất đi trong sự vô vọng. Có còn chăng là đôi lúc những hình ảnh đó vụt sống lại trong tâm tưởng, trong sự thương nhớ của chúng ta, như thể ngửi mùi hương của một bông hoa không còn thấy bao giờ!
- U Minh của thời đã xa Phan Trường Giang Hồi ức
• Một chốn thời gian ngừng trôi (Thu Hương)
• U Minh của thời đã xa (Phan Trường Giang)
• Xứ Úc Thòi Lòi Đi Dễ Khó Về (Trịnh Thanh Thuỷ)
• Thăm Viếng Florida (Ngọc Hạnh)
• Đi Tây (Phạm Xuân Đài)
Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |