|
Bùi Giáng(17.12.1926 - 7.10.1998) | Du Tử Lê(.0.1942 - 7.10.2019) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Ông đã có những bài hát rất hay về các bà mẹ (“Lời mẹ ru”, “Ca dao mẹ”... chẳng hạn), ông không cần phải viết thêm “Huyền thoại mẹ”. Ông đã có những bài hát thật dễ thương về những cô gái, những người yêu (“Nắng thủy tinh”, “Còn tuổi nào cho em”... chẳng hạn), ông không cần phải viết thêm “Em ở nông trường, em ra biên giới”. Ông cũng không cần phải viết “Khăn quàng thắp sáng bình minh”...
Hiếm có một tiểu thuyết như Đường về thủy phủ của Trịnh Y Thư. Không phải là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, nhưng lại làm người đọc phải bâng khuâng nghĩ về những chặng đường đã trải qua của dân tộc. Không phải là một tiểu thuyết diễm tình, nhưng lòng độc giả sẽ chùng xuống khi khép trang sách lại và ngậm ngùi cho những mối tình tan vỡ. Bạn có thể đọc xong, tuần sau đọc lại, vẫn còn thấy có những gì như cần đọc nữa...
Kề từ khi bệnh tật tận tình thăm hỏi, Khánh Trường đã cho ra đời: Truyện ngắn Khánh Trường (2016), Chuyện Bao Đồng (tạp bút, 2018) và các tiểu thuyết: Tịch Dương (2019), Dấu Khói Tàn Tro (2020), Bãi Sậy Chân Cầu (2020), Có Kẻ Cuồng Điên Khóc (2020), Xuyên Giấc Chiêm Bao (2021), Đừng Theo Dông Bão (2021). Nắng Qua Đèo (2021), Năm Tháng Buồn Thiu (2023), Cùng Nhau Đất Trời (2024) và cuối cùng là tập Thơ Khánh Trường (2024)...
Buổi trình diễn ngày 2/6/1994, tại Thính Ðường Carnegie Hall, Ðại học Kỹ Thuật New York là một xác chứng về câu chuyện có vẻ không thực của một gia đình tên gọi Nguyễn Ðình Nghĩa. Vì sau gần trăm năm thành lập, phòng hòa âm ấy chỉ dành riêng để các bậc thầy trình diễn về các bậc thầy, những Beethoven, Mozart, Wagner... Nhưng nguồn sống động làm phấn khởi, thúc dục tôi viết nên bài này... Ðấy là dự định mà tôi tin chắc Nghĩa sẽ thực hiện được - Làm sống lại Beethoven, Tchaikovsky, Debussy... Bằng lửa. Với lửa...
Anh kể lại Khóa 28 của anh ra trường ngày 21 tháng Tư năm 1975 tại trường Bộ Binh Long Thành chứ không phải ở Vũ Đình Trường Lê Lợi trên ngọn đồi 1515, một lễ ra trường độc đáo nhưng buồn nhất trong lịch sử của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Khóa mang tên vị Đại Tá tử thủ Charlie Nguyễn Đình Bảo. Các tân Thiếu Úy không được mặc đồ Đại Lễ mà trang phục nón sắt, quân phục Treillis. Thủ Khoa Hồ Thanh Sơn cũng không có cơ hội giương cung biểu tượng chí tang bồng hồ thỉ...
Xuyên suốt tác phẩm vẫn là sự nhân bản thể hiện qua những đoạn văn dạt dào tình cảm miêu tả cảnh đẹp quê hương, những địa danh, những xóm làng nơi tác giả đi qua dù là hòa bình hay trong chiến tranh, những trò tinh nghịch thuở thiếu thời, tình yêu đầu đời, tình bạn bè, tình thân và cuối cùng nhắm đến vẫn là CHÂN-THIÊN-MỸ cho dù đó chỉ là hy vọng, là đốm lửa yếu ớt trong đêm đen mịt mù...
Trong những điều kiện khắc nghiệt, và trong những hoàn cảnh đầy đe dọa lên số phận, vậy mà Lữ Quỳnh vẫn viết. Viết đối với anh, theo tôi, là một đam mê, chứ không phải là trách nhiệm, hay “một cây bút là một sư đoàn” gì ráo... Tôi bỗng nghĩ đến một nhận định của Mai Thảo khi ông giới thiệu bài Bệnh Xá Cuối Năm của tôi trên Văn. Ông cho là tôi đã: “đặt sống thành suy nghĩ. Tự thành trong cô đơn”. Nhận định này rất đúng cho Lữ Quỳnh....
Giờ đây nàng ngồi cô độc bên nấm mồ, trong đầu mọi việc cũng bắt đầu bị lẫn lộn. Chỉ có nàng ngồi đây, ngay phía dưới chân chàng, nói chuyện với chàng. Nàng đã ngồi từ lâu cũng như đã ngồi từ bao năm qua. Ngôi sao đầu tiên đang lấp lánh trên bầu trời bát ngát, thình lình mắt nàng tối sầm lại. Hình như có một cánh tay từ đâu đó với tới, với tới nữa ... rồi ôm chầm lấy nàng. Tosia lùi lại, hai tay quờ quạng trong không khí. Rồi nàng gục xuống ngay bên mộ Sytin ...
Trước 1975, ông tham gia Phong trào Du ca và là lính tác chiến, đã cùng Nguyễn Quyết Thắng và Đoàn Văn Khánh chủ trương thành lập Cơ sở văn-nghệ Con Người ở Ban-Mê-Thuột. Thơ ông sau 1975 mới được tuyển in lại trong Lời Ghi Trên Đá (TpHCM: Văn Nghệ, 2006) với 3 phần Thơ tặng con diều giấy, dế than và cá lia thia, Lang bạt và Ký thác – phần đầu gồm những bài trước 1975....
Bằng giọng nói ngọt ngào của cô gái Bắc, Ngô Minh Hằng ngỏ lời cám ơn sự hiện diện của những người ngưởng mộ cô, nhất là những người ở nơi xa, phải lái xe đến hàng trăm cây số. Trong thời gian gần đây, thơ Ngô Minh Hằng xuất hiện đều khắp trên hầu hết các tờ báo xuất bản ở hải ngoại cũng như trên các mạng lưới toàn cầu. Sự cuốn hút quần chúng một cách kỳ lạ trong thơ Ngô Minh Hằng đã trở nên một hiện tượng hiếm thấy so với số đông thi sĩ đương thời...
Nguyễn Văn Bông, ông sanh ra nơi đất địa linh, ở đó có Trương Công Ðịnh hy sinh vì đại nghĩa; ông sống trên đường Phan Thanh Giản, tên của người Kinh Lược Sứ lấy cái chết cho ba quân được sống, ông nằm xuống trên đường Cao Thắng, tên của người chiến sĩ trí thức yêu nước... Nguyễn Văn Bông nằm xuống như một người chiến sĩ hy sinh ngoài mặt trận, xứng đáng được vinh danh. Nguyễn Văn Bông với những gì ở ông đã làm ông trở nên con người tựu nghĩa...
Việc chôn cất GS Xuân được trại giao cho đội tù hình sự phụ trách, và các tù chính trị miền Nam không được phép tiễn đưa. Họ chỉ có thể đứng tại cổng khu buồng giam, nhìn cảnh hai tù hình sự khiêng quan tài GS. Xuân đem chôn trên đồi hoang mà lòng ngậm ngùi thương xót cho sự ra đi thầm lặng và chua xót của GS. Xuân, một Trí Thức ưu tú và mẫu mực đã bỏ mạng vì sự trấn áp triệt để và chế độ giam cầm khắc nghiệt của bạo quyền cộng sản Hà Nội...
Ông Phan văn Song du học và tốt nghiệp tiến sĩ Luật tại Pháp, lập gia đình với phụ nữ Pháp và giảng dạy tại Viện Khoa học Quốc tế (Pháp), giống như nhiều trí thức thời đó, ông bỏ hết tất cả những hạnh phúc cá nhân và quyết định trở về Việt Nam để đóng góp cho đất nước. Nhưng cũng bắt đầu từ đó cuộc đời của ông trải qua không biết bao nhiêu là những thăng trầm theo vận nước...
Điều tôi muốn nhắn nhủ với các thế hệ nam nữ thanh-niên trẻ là chúng ta phải sống làm sao cho đáng sống kiếp người. Nói theo ngôn ngữ của Lý Đông A, con người phải sống đủ 3 mặt là: Sống − Còn − Nối tiến hóa. Gói gọn là sống Nhân Chủ, dựa vào Nhân Bản, rồi Nhân Chính và Dân Chủ. Khởi đầu, chúng ta phải cố gắng lưu giữ và trao truyền văn hóa của dân tộc....
Nhạc sĩ Hoài Nam tên thật là Trần Hoài Nam, sinh năm 1942 tại Sóc Trăng. Ông là tác giả của nhiều bài nhạc vàng nổi tiếng là Ba Tháng Quân Trường, Chín Tháng Quân Trường, Tình Bạn Quang Trung, Những Dòng Lưu Niệm, Sau Lần Hẹn Cuối, Thương Tình Nhân, Hoa Sứ Nhà Em (tức Hoa Sứ Nhà Nàng, viết chung với nhạc sĩ Hoàng Phương)... Ông cùng một số nhạc sĩ như Trần Thiện Thanh, Anh Việt Thu, Nguyễn Văn Đông, Dzũng Chinh… tham gia sinh hoạt văn nghệ trong quân đội, chuyên sáng tác các ca khúc về người lính...
Lối Cũ Chẳng Sao Quên của Bích Huyền, là một tập hợp của nhiều đoản khúc góp lại thành một bi hùng ca của giới phụ nữ trong những năm tháng đen tối và vỡ vụn sau 30/4. Trường ca ấy, Bích Huyền không phải chỉ viết cho riêng bà, viết cho người con gái duy nhất của bà, Nguyễn Quang Diễm Uyển, mà cho biết bao nhiêu người phụ nữ đồng cảnh với bà trong những năm tháng khốn đốn, thay chồng nuôi con, gánh bớt cho chồng bao nhiêu nhọc nhằn...
Từ thuở sơ sinh trên bờ sông Dương Tử / Theo cánh chim Lạc / Bay về với nắng phương Nam / Ta cất tiếng hùng ca Khai rừng đuổi thú / Bốn ngàn năm khôn lớn đứng dậy /làm người. / Bây giờ một nửa thân ta thương tích / Nằm nhìn con sông Bến Hải Nằm nhìn hai phần thân thể buông nhau / Bởi chính một dòng huyết mạch!....
Sau đó, anh ấy tiếp tục kể lại ra cho chúng tôi nghe một loạt những hành trình dường như bao gồm nhiều lần gặp gỡ những hành tinh nhỏ hay dừng lại nơi nào đó trên suốt quãng đường đi. “Chúng tôi có một mạng lưới trạm vũ trụ và các hành tinh nhân tạo rộng lớn” - Anh giải thích với giọng điệu niềm nở hơn. - "Khi nào đó các bạn có cơ hội gặp gỡ nhiều giống người rất thú vị" - Anh ấy miêu tả như toàn bộ sự việc giống như một chuyến du lịch nào đó...
Đây là một tuyển tập đặc biệt của Tạp chí Ngôn Ngữ, chủ đề về Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, ấn hành tháng 5 năm 2024. Nhan đề sách còn là “Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc: Bằng Hữu & Văn Chương.” Sách dày 716 trang, bao gồm tiểu sử, thơ và văn xuôi của vị bác sĩ nổi tiếng, khi làm thơ ký tên là Đỗ Nghê và khi viết văn xuôi ký tên thật là Đỗ Hồng Ngọc....
“Cao Nguyên Đá” là loạt tranh gần đây nhất của Nguyễn Trọng Khôi, được ông hình thành từ chuyến đi – lần đầu tiên – đến với một vùng sơn khê còn tạm gọi là hoang dã. Cảnh sắc và con người được họa sĩ thể hiện trong tranh phần lớn ở Hà Giang, với những bản làng Nặm Đăm, Thiên Hương…, những địa danh Quản Bạ, Mã Pì Lèng, Đồng Văn...
Phải chăng hồn thơ bát ngát, nhưng người thơ Trần Thanh Hiệp đã chối từ là thi sĩ? Tôi xin mượn bảy chữ được tô đậm này làm tựa cho bài viết. Một tập thơ duy nhất, và tiếng thơ- văn chương Trần Thanh Hiệp của ngày ấy… bây giờ được thay bằng những tiếng nói mạnh mẽ, miệt mài tìm một lối thoát cho dân tộc. Nhưng… Như tất cả những gía trị tốt đẹp của Văn Học Miền Nam Việt Nam hiện đang dần được khôi phục lại. Tập tiểu luận Tiếp Nối và tập thơ Vào Đời được tái bản không ngoài những ước vọng ấy....
Có phải tâm thức của họ, cái mà nhà Phật gọi là a-lại-da-thức đã pha trộn, cưu mang và hòa quyện với chúng sinh từ muôn kiếp để ẩn tàng, luân hồi và hiển lộ trong cuộc làm người này? Nếu quả thật như thế, Phương Tấn tự nhiên là người mang thơ trong mình đi suốt đời mình. Và cứ thế, tinh anh của anh trong thơ anh sẽ còn mãi cho đến những đời sau, vì “thác (chỉ) là thể phách”. Bởi vậy tôi mới dám nói “Phương Tấn, thơ quá một đời người”...
Tôi hân hạnh có cơ duyên đứng nơi đây để nói về một tuyển tập gần 400 trang, có tên là “Chân Dung Ngày Đó Bây Giờ” của hai nhà văn Việt Dương và Trần Thị Nguyệt Mai... Tôi đã học rất nhiều từ sách này của Việt Dương và Trần Thị Nguyệt Mai. Tuyển tập sách này đã đưa tôi đi từ kinh ngạc này tới kinh ngạc khác... Trong tuyển tập này, trang nào cũng hay, cũng chứa đựng nhiều thông tin về các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lớn...
Từ trên trực thăng nhìn xuống, mình thấy các vật thể đều có bóng. Bóng tối tràn ngập khắp nơi; nó giống như một tấm thảm đen và không biến mất. Bóng tối bám chặt vào khoảng không giữa bạn và nguồn sáng, chúng không bao giờ buông ra. Chặn ánh sáng lại, cuối cùng bạn chỉ còn là một cái bóng. Và bạn luôn đứng giữa hai cái đó. Từ một đứa trẻ nhút nhát, sợ hãi cái bóng của chính mình, lớn lên trở thành một nhà văn, tôi viết để kiếm sống ...
“Bài Thánh Ca Buồn” hiển nhiên là một câu chuyện được kể bằng âm nhạc với đầy đủ nhập đề, thân bài và kết luận - Nhưng tính tha thiết, chân thành của ca khúc từ giai điệu tới ca từ; vì thế, với thời gian, nó đã trở thành một chiếc bóng thứ hai, u uẩn, đeo dính tâm hồn nhiều người nghe, trải qua nhiều thế hệ. Tôi muốn gọi đó là chiếc-bóng-tâm-cảm hay, một thứ kinh-nguyện-riêng của những người yêu nhau, bất hạnh…
Tôi tự nhủ, phải viết một đôi điều để chia tay anh, để tạ lỗi thời trai tráng đã xúc phạm anh, vì đã có lần anh phân bua: thế mà ngày trước câu ấy đã tặng tôi một cái bạt tai! Khi nhắc chuyện này anh đã ngoài 70 tuổi, nhắc trước bà chị ca sĩ của tôi như méc thằng nhỏ ngày xưa hỗn quá. Nhưng anh có biết ngay cả khi anh từ giã cõi đời, tâm hồn anh còn trẻ hơn tôi rất nhiều, trẻ đến nổi không quên được sự nông nổi của tôi 30 năm về trước...
Chiều Chủ Nhật cuối tháng Sáu, gần 100 người đã cùng tụ họp tại một tiệm sách Việt Ngữ lâu đời nhất còn lại ở vùng Little Sài Gòn, nơi nhà văn, thi sĩ, họa sĩ Khánh Trường ra mắt hai tác phẩm Thơ Khánh Trường và Khánh Trường’s Oil Painting trong khung cảnh thân tình, ấm cúng. Chưa đến 2 giờ chiều, ban tổ chức đang còn sắp xếp bàn ghế sách vở, đã thấy bạn bè thân hữu và độc giả kéo đến ngồi kín căn phòng nhỏ phía trước nhà sách Tự Lực...
Ông mong đợi cuộc trèo lên tận đỉnh núi Adam cao 3,000 mét mà từ trên đó có thể thấy quang cảnh toàn hòn đảo vào ngày trời trong. Cách đây mười năm, trong lần thăm hòn đảo này lần đầu, ông đã mất dịp trèo lên đó vì có việc khẩn cấp phải trở về Luân Đôn lập tức sau khoá hội thảo. Nếu may mắn hơn nữa, ông có thể đi câu tại những dòng sông chung quanh Nuwara Eliya, một cấu tạo lạ lùng ở độ cao 2,000 mét mà hiện nay vẫn còn biết bao di tích của các thời đại vua chúa xa xưa...
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử...
Chúng tôi thỉnh thoảng gặp nhau trong những buổi ra mắt sách, cà phê cuối tuần, triển lãm tranh, và những lần họp mặt khi có bạn văn từ xa đến. Chúng tôi có những trao đổi trong những không gian nghệ thuật về những cuốn sách vừa xuất bản, về những nhà văn yêu thích, về âm nhạc cổ điển, về những người bạn còn mất... Nhiều lần tôi được nghe Trịnh Y Thư chơi độc tấu Tárrega, Albéniz, Villa-Lobos, Barrios, và những bản cầm khúc anh soạn cho Tây Ban Cầm. Phỏng vấn dưới đây có thể được coi như những trích đoạn của những mẩu chuyện đã kéo dài trong nhiều năm tháng....
Con đường trời mưa êm /Chiếc dù che mầu tím /Môi tìm làn môi ngon. Nhạc Việt vẫn có lắm sắc màu. Trên hết, nhiều nhất, vẫn là màu tím. Màu tím ngan ngát, màu tím ngắt, tím lịm hay màu tim tím quyện trong câu hát, lời ca. Màu tím nên thơ, màu tím dịu dàng nữ tính, nhẹ nhàng mà vấn vương, lặng thầm mà quyến rũ, đến nay vẫn là đề tài và nguồn nhạc hứng chưa bao giờ cạn cho người viết nhạc ...
Nói đến ông Vũ đình-Long, phần nhiều ngày nay chỉ biết đến ông Vũ đình- Long nhà xuất-bản, đã gieo vào vườn văn-học ta từ tập tiểu thuyết dịch của Tàu: Thủy-Hử, Tam-quốc... cho đến những áng văn có giá trị ngày nay. Ít người nhớ rằng ông là một nhà văn đã từng có công với văn học nước nhà. Trong thời kỳ văn- học còn đang thành lập, ông là người đầu tiên đã dùng tiếng Nam sáng-tác những vở kịch mới theo thể kịch của Pháp...
Đọc sách của nhà văn Trà Lũ vừa vui vừa bổ ích. Vui là vì cây viết có duyên, bất cứ bài nào, đoạn nào, dầu ai khó tánh đến đâu cũng không thể đọc qua mà không buột cười cho được. Bổ ích vì kiến thức được cập nhật hằng ngày, những tin tức đặc biệt trên thế giới đều có đủ, hơn nữa sự hiểu biết của tác giả sâu rộng, những nhận xét ly kỳ, từng chữ từng câu gợi cho ta nhớ lại chuyện xưa, giúp ta biết thêm chuyện mới bây giờ...
Tuyển tập “Thơ Lính Chiến Miền Nam – ARVN Soldiers Poetry” do Nguyễn Hữu Thời sưu tập, chuyển ngữ sang Anh văn và biên tập đã đáp ứng được phần nào nhu cầu này. Tuyển tập do Tiếng Quê Hương xuất bản (2016). Từ những bài thơ trong “Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến”, Nguyễn Hữu Thời đã chắt lọc ra 130 bài thơ của 52 thi sĩ theo tiêu chuẩn riêng của ông, để hình thành tuyển tập “Thơ Lính Chiến Miền Nam” (Thư Quán Bản Thảo, 2012)...
Từ nhiều tháng nay, người viết ngồi dưỡng bệnh bằng nhạc, cho đến khi tòa soạn Người Việt yêu cầu một bài đặc biệt về tân nhạc trong và sau biến cố 54.... Quỳnh Giao cố gõ lại trí nhớ mà gửi độc giả bài này, với một kết luận là sự tri ân của một người đã nghe và hát: “Nền tân nhạc Việt Nam có nhiều tác phẩm nghệ thuật nhất, và đáng nhớ nhất vì còn được hát ngày nay, là ở miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975 ...
Tôi nhớ màu tóc mây trắng của Ông. Nhớ mỗi lần gặp Ông thì thế nào cũng có một valy sách tặng đem về. Nhớ ánh mắt Ông rưng rưng tiễn biệt. Nhớ câu dặn dò: Mai mốt gặp nhau… Nhớ bàn tay của người Anh Cả choàng qua vai vỗ về và giọng nói trầm ấm, chậm rãi của Ông: “Ráng đi Út Như Thương” (Tôi đã gọi Ông là Anh Cả Hoài Thư kể từ khi biết Ông và Ông gọi tôi là Út Như Thương)...
Vào năm 1968, nhà xuất bản Huyền Trân do Nhật Tiến chủ trương, cho xuất bản tập truyện Hương Thu của Đỗ Phương Khanh. Tôi đã viết bài điểm cuốn ấy trên tạp chí An Lạc do Đại Đức Thích Thông Bửu làm chủ nhiệm... Trong lúc bàn về sách vở, báo chí miền Nam, tên cán bộ văn hoá Mai Quốc Liên đã khinh miệt chê bai văn chương miền Nam là văn chương chợ trời, văn chương bán “sôn”. Chị Phương Khanh dằn không nổi, thét lớn: ”Sao anh dám nói thế? Anh đã xem hết sách vở miền Nam chưa? Anh nói thế là do ý anh hay anh nhân danh Bác và Đảng của anh?”...
Truyện của Vũ Quỳnh Hương là truyện của những nỗ lực muốn vực dậy những giấc mộng đời, những giấc mộng nằm ở mãi tận những vùng tối khuất âm u trong trái tim của mỗi một con người mà ít ai muốn ngắm nhìn mặt mũi chúng giữa cuộc sống hối hả và mệt mỏi này. Và ai sẽ là người nuôi nấng những giấc mộng của chúng ta nếu không phải đó là những nhà văn, những nhà thơ và những nghệ sĩ chân thực của cuộc đời?...
Tôi nghĩ, khó ai có đủ kiên nhẫn mầy mò, đánh máy, lay out, in, đóng, khâu, cắt...(hoàn toàn bằng tay) 3,600 trang sách, tính riêng cho 5 bộ “Thơ Miền Nam” các thể loại. Chưa kể, 17 tác phẩm, sáng tác trước tháng 4-1975, của các tác giả như Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn, Hoài Khanh, Kiệt Tấn, Hoàng Hương Trang, Linh Phương, Hạc Thành Hoa, Đặng Tiến, Y Uyên, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Phan Nhự Thức... Và, 130 đầu sách khác (trong số đó, có 37 tuyển tập thơ, văn thuộc tủ sách Thư Quán Bản Thảo.)...
Trần Phong Vũ vừa cho ra đời tác phẩm mới, “Việt Nam – Nỗi Đau & Niềm Hy Vọng“. Với tôi, người thua Trần Phong Vũ ba thập niên, đây là một tác phẩm đặc sắc... Quan điểm chính trị của tác giả — một nhà giáo, một nhà báo Miền Nam Việt Nam trước 1975 — có thể hợp hay không hợp với người đọc, có thể đúng hay không đúng với thực tế diễn ra, nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng ở đây là tấm lòng của người viết, là nhiệt tình, là niềm tin, và trên hết, là tính khiêm nhường...
Chiều trên phá Tam Giang /Anh sực nhớ em /Nhớ bất tận /Giờ này thương xá sắp đóng cửa /Người lao công quét dọn hành lang /Những tủ kính tối om /Giờ này thành phố chợt bùng lên /Để rồi tắt nghỉ sớm (Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm /Sài Gòn không còn buổi tối nữa) /Giờ này có thể trời đang nắng /Em rời thư viện đi rong chơi /Dưới đôi vòm cây ủ yên tĩnh /Viền dòng trời ngọc thạch len trôi...
Hình ảnh một hành giả mặc áo vá, đầu trần chân đất đi từ Nam ra Bắc thực hành phép tu hạnh đầu đà của Phật Giáo đang gây một trận động đất trong dư luận Việt Nam. Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN) ngay lập tức phát ra thông báo khẳng định “người được mạng xã hội gọi là ‘Sư Thích Minh Tuệ’ không phải là tu sĩ Phật Giáo.” Oái oăm thay, lời khẳng định chắc như đinh đóng cột của các vị chức sắc Phật Giáo quốc doanh lại góp phần phơi trần cái bản lai diện mục giả hiệu của chính họ ...
Trời cuối đông lành lạnh, lòng tôi bỗng dạt dào với thiên nhiên như một tri âm tri kỷ. Chỉ có ta với trời đất và mây đã chia xẻ với ta những nỗi niềm buồn vui thế sự. Lòng ta chợt yêu cùng hoa lá từ cái thủy chung trầm mặc của đá, đến cái thay đổi vô thường của hạt sương trên cánh hoa. Và cũng từ những dạt dào chữ nghĩa xưa, nay tôi đã khám phá ba giòng suối ngọt ngào của ba giòng thơ tiêu biểu Đông Phương qua Thơ Thiền, Đường Thi và Haiku....
Sư đã khiến nhiều người đang mê lạc tà đạo thức tỉnh trở về với ánh sáng của chánh pháp. Sư đã giúp nhiều người thấy được hình ảnh của Phật giáo nguyên thuỷ và bóng dáng tu hành - cuộc đời Đức Phật. Sư như một tấm gương chiếu yêu có thể làm lộ ra chân tướng của một số “xàm tăng”, “chuyển khoản tăng”, “hiến kế tăng” Sư đã khiến nhiều người đang mê lạc tà đạo thức tỉnh trở về với ánh sáng của chánh pháp. ...
Người bạn nói chậm rãi. “Ngày sinh nhật không phải là ngày ông bày vẽ ra cho có chuyện để mà vui chơi hay ăn mừng, mà đấy là ngày để ông tưởng nhớ tới đấng sinh thành; nói rõ hơn, tưởng nhớ đến bà mẹ của ông, người đã phải mang nặng đẻ đau để cho ông được mở mắt chào đời, người đã phải nhọc nhằn cưu mang ông, nuôi dạy ông nên người. Ngày sinh nhật cũng không phải là ngày để ông ăn mừng hay ‘vinh danh’ ông mà là ngày để ông vinh danh… bà mẹ của ông...
Thời học sinh, tôi thích tờ Phổ Thông tạp chí, Giám Đốc, Chủ Bút: Nguyễn Vỹ, số I ngày 1/11/1958. Vào năm 1960 mục Đáp Bạn Bốn Phương của Diệu Huyền rất ăn khách. Sau nầy Nguyễn Vỹ sáng tác Thơ Lên Ruột ký bút hiệu Diệu Huyền, và mục “Mình Ơi…” ký tên Cô Diệu Huyền... Mùa Thu California bắt đầu, nhân bài thơ Nam Thu Hòa Khúc của nhà thơ Nguyễn Vỹ, tôi viết đôi dòng về ông để tưởng nhớ đến người đã an giấc nghìn thu...
Sài Gòn. Hai chữ thân thương đối với biết bao thế hệ người Việt. Nhưng ít ai biết được những câu chuyện xưa, những dấu vết lịch sử và những ‘bí mật’ thành phố đã và đang lưu giữ. May mắn thay, vài năm gần đây đã có một số tác giả đi tìm lại những dấu vết xưa của Sài Gòn và viết nên những cuốn sách hay. Một trong những cuốn sách đó là ‘Sài Gòn không phải ngày hôm qua‘ của tác giả Phúc Tiến...
Câu thơ hay như bông hoa lạ và đẹp. Bắt được câu thơ hay như bắt gặp một vẻ đẹp làm xao xuyến. Thường thì người ta ít khi nhớ được toàn bài thơ nào, hầu hết chỉ nhớ một vài câu hay hay. Như thế cũng đủ để yêu một bài thơ. Ngôn ngữ thơ tạo bản sắc riêng cho thi sĩ, cũng tựa mỗi ca sĩ có giọng hát riêng; hoặc hơn thế nữa, tạo được một “trường phái thơ”. Ta vẫn nghe những “ngôn ngữ thơ của Bùi Giáng”, “của Phạm Thiên Thư”, “của Tô Thùy Yên”...
Nàng thấy thằng con đang khập khiễng bước đi. Gió thổi mạnh làm bộ quần áo tả tơi trên mình nó phát lên tiếng phần phật. Nàng hãnh diện nhìn bắp thịt trên cánh tay và thân hình rám nắng của nó. Đây là da thịt của nàng. Hình hài nó thật đẹp, đẹp nhất và khỏe mạnh nhất trong đám trẻ ở làng này. Nó đang trở về với nàng. Nàng cười điên dại, nước mắt tràn ra vì sung sướng. Con nàng an toàn trở về. Một căn nhà cạnh biển mở cửa đón nó vào. Họ là những người tốt, nhưng vì quá mệt, nó lăn ra ngủ trước khi nói cho họ biết tên là gì...
Họa sĩ Victor Tardieu (1870-1937), là người đặc biệt rất có công với nền nghệ thuật hiện đại của chúng ta... Ông đã vận động, nhiều lúc cả với tinh thần tranh đấu để trường Mỹ Thuật Hà Nội được ra đời, bổ túc cho các trường Mỹ Nghệ đã được thành lập trước đây. Trường Mỹ Thuật Hà Nội được hình thành, bao gồm 4 ban: kiến trúc, hội họa, điêu khắc và mỹ thuật thực hành. Thành phần giảng huấn toàn là người Pháp, có một phụ giáo người Việt là Nguyễn Nam Sơn, tức Nguyễn Văn Thọ...
Được tin họa sĩ Hồ Hữu Thủ (1940-2024), một danh họa nổi tiếng của Sài Gòn, người được gọi là “thuật sĩ của sơn mài”, vừa qua đời chiều ngày 9/9/2024 tại Sài Gòn, DĐTK xin chân thành chia buồn cùng gia đình ông và xin nguyện cầu cho hương hồn ông được yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng... Hồ Hữu Thủ sinh năm 1940 tại Thủ Dầu Một, tốt nghiệp trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn năm 1964. Hội viên Hội Họa sĩ trẻ tại Sài Gòn trước năm 1975...
Khi sáng tác "Đường xưa lối cũ", ông còn đâu đó trên quê hương, với chút niềm hy vọng. Biết đâu rồi có lúc im tiếng súng, đất nước yên bình, về xây lại mộ người đã khuất, tìm lại người thân dẫu có thất lạc vẫn là thất lạc trên cùng một quê hương. Còn chúng ta, đám lưu lạc tứ phương đã gần nửa thế kỷ vì trốn chạy một chế độ, có còn đâu những đường xưa lối cũ để tìm về. Người mất đã mất, kẻ tự đày biệt xứ đã là một lựa chọn tự thân thì Đường Xưa Lối Cũ, ới ông Hoàng Thi Thơ ơi, coi như đã bít lối...
Đan sinh ra trên một đất nước khác, không phải Việt Nam. Sống trong một môi trường khác, an bình và phát triển, và được dậy dỗ từ một nền giáo dục tiên tiến. Nhưng chính từ đó, khi chúng ta biết Đan thì chúng ta lại gặp một Nguyễn Thụy Đan khác. Một đam mê với văn chương Việt Nam, một hướng vọng về thời đại xa xưa cũ và hơn vậy nghiên cứu về học thuật. Cùng với đức tin tôn giáo, Đan sống trong cảm thức đời sống rất sâu của thân phận con người....
Các diễn giả: Nhà Văn Bích Huyền (người tổ chức chương trình), Giáo sư Đỗ Dung, Nha Sĩ Liên Hương, Nhà Văn Hà Nguyên Lãng, Nhà Văn Chu Tất Tiến, và MC Thúy Anh đã làm cho độc giả chỉ muốn chạy đến gần Thanh Dương và tặng cho Nhà Văn, Nhà Thơ dịu hiền này những tình cảm tha thiết như người đi xa lâu ngày bây giờ mới gặp lại... Đến lúc chia tay, tất cả các giọng ca đã hát trong chiều ấy đều sát vai nhau và hát bài Hãy Yêu Nhau Đi, thay cho Thanh Dương, người luôn muốn cho xã hội tươi đẹp, và muốn cho mọi người yêu nhau mãi mãi...
Tên tuổi nhạc sĩ gắn liền dòng nhạc trữ tình, quê hương. Chủ đề sáng tác của ông thường là những số phận không may, cuộc tình dang dở. Công chúng thích nghe nhạc của Vinh Sử vì họ thấy ở đó hình ảnh và tâm sự của chính mình... Trong suốt 60 năm viết nhạc, ông còn nhiều ca khúc lấy cảm hứng từ những câu chuyện tình như: Chuyến xe lam chiều, Vòng nhẫn cưới, Đoạn buồn đêm mưa, Qua ngõ nhà em... Các bài hát được phát khắp các ngõ, hẻm, quán cà phê Sài Gòn những năm 1980-1990...
Chiến thắng của cộng sản có vinh quang không? Phải trả lời dứt khoát là không. Cuộc nội chiến này là một cuộc chiến ủy nhiệm trong khuôn khổ Chiến Tranh Lạnh như Lê Duẩn đã từng nhìn nhận khi nói “ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô”. Thắng hay bại tùy thuộc ở những tính toán chiến lược của các siêu cường. Miền Nam đã thua vì bị Mỹ bỏ rơi, Miền Bắc đã thắng vì được Liên Xô tận tình hỗ trợ tới cùng. Nếu ngược lại Liên Xô bỏ rơi Miền Bắc trong khi Mỹ tiếp tục tận tình ủng hộ Miền Nam thì kết cục đã khác hẳn....
Ngôn Ngữ đặc biệt về “tác giả tác phẩm”, cuốn này hân hạnh được giới thiệu đến quý bạn đọc, một cây bút tài danh đã viết và thành công trong hầu hết trong nhiều bộ môn văn học nghệ thuật qua bốn thập niên. Tác giả đó là nhà văn Trịnh Y Thư. Ông tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội, trưởng thành tại Sài Gòn, du học và hành nghề điện tử viễn thông tại Hoa Kỳ cho đến khi hưu trí vào năm 2018...
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết... Một nhà chính trị không lập thuyết, một nhà khoa học không ngồi trong tháp ngà tư tưởng để chỉ nghiên cứu trên lý thuyết, nói cách khác một nhà hoá học thực nghiệm, Ông không chỉ mãn nguyện và an vị trong phòng thí nghiệm là đủ. “Con người” ông quả có nhiều “nghịch lý”. Là một chuyên viên phụ trách vấn đề phát thải tại Mỹ lại thường xuyên nghiên cứu về môi trường mãi tận Việt Nam...
Chúng tôi, trên nửa thế kỷ, may mắn kết được tình huynh đệ với ông Lý Đại Nguyên. Nhìn lại đời sống và hoạt động một đời của ông, tôi có thể nói rằng ông là tấm gương của một kẻ sĩ trước vận nước, một chiến sĩ có lập trường quốc gia, dân tộc vững chắc và một nhà văn hóa có tâm bình, lòng nhân và trí sáng. Ông sống bình dị, an nhiên, khi ra đi cũng nhẹ nhàng an nhiên. Vĩnh biệt anh Lý Đại Nguyên. Cầu mong anh sớm về miền tịnh thổ...
Dù yêu hay ghét, dù thích hay không thích, cũng phải nhìn nhận rằng “nhạc vàng boléro” vẫn gắn bó, quen thuộc trong những sinh hoạt đời thường của người Việt mình hơn bất kỳ dòng nhạc nào khác... Những bài boléro phổ biến trong nước hiện nay hầu hết là nhạc cũ trước năm 1975 ở miền Nam, ít có bài bản mới. Nói cho cùng, người Việt trong nước yêu chuộng những bài nhạc boléro của miền Nam tự do thì cũng tốt thôi, như một sở thích, thú vui lành mạnh và cũng là cách chọn lựa như chọn người mình thực sự thương yêu...
Tôi thật vui khi nói về nhà thơ Thiếu Khanh. Đây là một nhà thơ…hỏi nhiều người “biết không?” đều nghe đáp “không!”. Quả thật vậy…vì Thiếu Khanh “tự mai một” mình kể từ sau 30 tháng Tư năm 1975, Thiếu Khanh chuyển qua sống âm thầm, dịch sách chữ Anh sang chữ Việt và sách chữ Việt sang chữ Anh. Hơn ba mươi năm nay, Thiếu Khanh làm công việc phiên dịch / chuyển ngữ... Thiếu Khanh có làm thơ. Theo tôi, thơ Thiếu Khanh thuộc “nhóm” thơ Hay....
Tôi viết bài này để nhớ người bạn vong niên một đời... Trong khi viết những dòng này, tôi hình dung Vị Ý những lúc sôi nổi, thiết tha nói về bức tranh Đi Tìm Tự Do trong quán Tống Biệt hay trên con đường độc đạo của Galang. Bức tranh đó đã đi theo Vị Ý nên dân Việt đã thiếu mất một tác phẩm lớn, tác phẩm ghi lại một thời kỳ đen tối nhất của dân tộc...
Từ tình thân văn nghệ, anh đề nghị tôi viết về những chân dung mà tôi quen biết ghép vào phần của anh để thành đồng tác giả “Chân dung Ngày Đó Bây Giờ”. Đó là duyên khởi của cuốn sách bạn đang cầm trong tay. Nơi đây xin chân thành cảm ơn anh Việt Dương đã cho Nguyệt Mai được góp mặt, cũng là lần đầu tiên trở thành đồng tác giả một cuốn sách. Niềm vui ấy thật to lớn...
Cả ba anh em đều lớn lên, trưởng thành và làm việc với Viện Đại Học Vạn Hạnh mà chúng tôi coi như mái nhà gia đình trong cả nghĩa đen lẫn nghĩa trắng; chúng tôi đều là thành phần chính yếu nhất của Ban Biên Tập Tạp chí Tư Tưởng do tôi chủ trương thành lập, cùng với Ngô Trọng Anh, Tuệ Sỹ, Trí Hải (Phùng Khánh), Chân Hạnh, Lê Mạnh Thát....
Nói đến nhạc sĩ Tô Vũ, hẳn người ta nhớ đến những ca khúc Tiếng Chuông Chiều Thu, Tạ Từ và nhất là Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa -những ca khúc đến nay đã… 65 tuổi của ông (thời điểm viết bài này)… Người tích cực khuyến khích hai anh em họ Hoàng đi theo “âm nhạc cải cách” (tân nhạc) là ông thầy dạy môn văn chương Pháp: thầy Ngô Đình Hộ (sau này trở thành nhạc sĩ Lê Thương, tác giả 3 bài Hòn Vọng Phu bất hủ), để cùng thầy biểu diễn trong các tiết mục văn nghệ của trường, thầy cũng hướng dẫn cho các học trò tập tành sáng tác...
Ông là người đầu tiên và hơn ai hết hiểu rằng tâm hồn An Nam là một trong những tâm hồn có tính nghệ sĩ nhất trên thế giới, nhưng chưa tìm thấy công thức phát triển, vẫn còn đang lần tìm con đường nghệ thuật riêng, phải được giúp đỡ trong quá trình vươn lên đầy khó khăn. Và đó là mơ ước đẹp đẽ, cũng là sự thành tựu tuyệt vời của ông.…
Để coi tình già của anh ra sao. Đằm thắm hơn, nồng nàn hơn. Thăng hoa hơn. Hay tinh nghịch hơn. Nhà thơ, trái tim như cỏ lá. Một cánh hoa rơi, một dòng sông vắng, một buổi chiều mưa, một bờ vai nhỏ... Trái tim đã rung lên bần bật. Nhà thơ, không cảm xúc trước cái đẹp mới là kỳ. Mà phụ nữ, ai chẳng đẹp. Tuyệt phẩm của thượng đế. Biết sao giờ. Trái tim cỏ lá, đâu có già đi. Tình già là nói vậy thôi. Gừng càng già càng cay...
Trước năm 1975, ở miền Nam, thật sự không có nhiều người biết đến Huyền Kiêu. Khi còn tại thế, nhà thơ Đinh Hùng (bạn thân của Huyền Kiêu) có giới thiệu hai bài thơ của Huyền Kiêu là “Tình sầu” và “Tương biệt dạ” nhưng cũng không mấy người yêu thơ biết, không hẳn là vì ông là người của “phía bên kia”, mà thời gian ấy, nhiều tác giả tác phẩm ngoài Bắc, nhất là các nhà văn, nhà thơ tiền chiến vẫn được đưa vào chương trình học...
Hoàng Ngọc Tuệ tiếp tục hỗ trợ, thúc đẩy phong trào Du Ca. Du Ca do các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Hoàng Thái Lĩnh, Trần Trọng Thảo, Hoàng Kim Châu, Đinh Gia Lập, vân vân, bắt đầu nhưng chỉ hoạt động mạnh khi Hoàng Ngọc Tuệ kéo họ về cộng tác với Bộ Thanh Niên. Chính nhờ Tuệ dùng các phương tiện của bộ nên các đoàn du ca đã lan rộng khắp các tỉnh, sau năm 1965 vẫn phát triển...
Dù Trần Quang Hải rất thích thú với vai trò nhạc sĩ trình diễn nhạc cổ truyền, nhưng thật sự vai trò được coi là giá trị nhất đối với ông là một nhà âm nhạc học. Chính âm nhạc học đã bổ sung rất nhiều cho vai trò nhạc sĩ trình diễn của ông. Những tìm tòi, những khám phá sâu xa trong lãnh vực nhạc cổ truyền đã khiến nghệ thuật trình diễn của Trần Quang Hải thêm phong phú và rất linh động qua tài nghệ sử dụng rất nhiều nhạc khí của ông…
Bên cạnh hội họa, Nguyễn Trọng Khôi là một nghệ sĩ có nhiều tài năng và đam mê khác. Hát hay, đờn hay, cả sáng tác nhạc. Anh giao tiếp rộng và là bạn tốt của rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức. Tôi tham dự khá nhiều gặp gỡ bạn bè chung với Nguyễn Trọng Khôi. Lần gặp gỡ nào cũng để lại trong tôi ấn tượng tốt, khó quên. Tôi có cảm giác như cái đời sống ngoài hội họa nhưng khá năng động này của Nguyễn Trọng Khôi đã ảnh hưởng nhiều đến những sáng tác hội họa của anh...
Cuốn tiểu thuyết này, với lịch sử được dùng làm một phông nền qua những gam mầu rất mờ nhạt, và ước muốn của nó, theo tôi thấy, là hướng về phía ánh sáng, về sự yên bình, về sự xoa dịu, qua lòng hiểu biết và niềm tin vào cái thiện, cái tốt. Chia sẻ mong ước ấy của tác giả, nhà văn Trịnh Y Thư, tôi hy vọng người đọc tìm được cái ánh sáng và niềm tin ấy nơi tiểu thuyết nói chung. Và nơi quyển sách này, nói riêng...
Tác giả chọn mẩu chuyện Người Mẹ Tìm Con làm tựa đề cho tác phẩm rất ý nghĩa. Đó là thời điểm đen tối, nghiệt ngã trong giai đoạn lịch sử tang thương trong tháng Tư năm 1975. Những người vợ, người mẹ trong có chồng, con trong thời điểm di tản hỗn loạn đã bặt tin người thân để rồi năm tháng sau ngày mất nước, nhà tan, sống trong nỗi đau tột cùng, mòn mỏi đợi chờ trong cơn tuyệt vọng!...
Đời trăm nghìn nhánh khổ, nhánh nào cho người, nhánh nào cho mình? Năm 75 là ngã rẽ của đời người. Bạn bè, người thành danh, đứa bầm dập, và cho dù ở phương trời nào, Tây hay ta, nỗi khổ vẫn theo số mệnh mà đến. Giờ đây, đứa nào cũng chạm tay vào buổi hoàng hôn đời người. Tháng Tư, tôi thắp ngọn nến trong lòng. Thoảng trong mùi hương ngọc lan, tôi hát theo, hát thầm bài hát nghe được ở quán rượu...
Cuốn sách "Đường Về Thủy Phủ" vẽ ra được một toàn cảnh với các chi tiết, tạo được một ấn tượng về cuộc chiến, về không gian và cuộc sống xã hội, lịch sử của các giai đoạn gối tiếp nhau. Và về cuộc bể dâu mà con người phải đối mặt, với những quyết định sai lầm của chính nó. Hay với cái “quyết định”, cái hướng đi mù loà, xiên xẹo và xộc xệch của lịch sử […]
Trích Tựa của Bùi Vĩnh Phúc, nhà phê bình văn học....
Sang năm thứ tư (1917), bắt đầu mê thơ Tản-Đà. Hai quyền "Khối tình con" ra đời, không một bài nào tôi bỏ qua. Thích nhất là thơ Tú-Xương. Những bài thơ do tạp-chí Nam-Phong sao lục, tôi đọc gần thuộc cả. Có thể gọi Tú-Xương là thầy học của Tú-Mỡ.
– Vì nhớ ơn ông thày học ấy nên ông mới lấy cái biệt hiêu ngộ nghĩnh là Tú-Mỡ? Ông giả lời tôi bằng một cái mỉm cười, nhận lấy cái hành động đầy sự biết ơn đối với ông thầy thơ của giòng sông Vị....
Đây là một tác phẩm sử, chuyển tải nhiều biến cố trọng đại đã xảy ra trên dọc dài diễn trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc. Nó được hình thành từ sự đúc kết tài liệu qua phương pháp sử học, nhưng thay vì xuất hiện dưới dạng thức một cuốn sách biên khảo sử học thuần túy, khô khan và đầy tính hàn lâm thì "Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu" đã mang hơi thở của một dạng thức "tiểu thuyết lịch sử" để dễ đi vào tâm tư người đọc và dễ được đại chúng đón nhận hơn...
Lần cuối cùng tôi trở lại Việt Nam năm 2018. Trần Quang Lộc nhiệt tình ra đón tại ngã ba Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngôi nhà anh chị ở bên một khu vườn nhiều cây xanh, đẹp và êm đềm. Chút điều không vui vì anh đang đau yếu. Đây là lần duy nhất sau bốn mươi năm bè bạn, tôi và Trần Quang Lộc không ngồi bên một cây guitar. Lần đầu tiên anh đã không hát khi ngồi với tôi, và cũng sẽ chẳng còn bao giờ nữa…
Quỳnh Giao tốt nghiệp thủ khoa ngành dương cầm và nhạc pháp năm 1963... Nghệ danh Quỳnh Giao là do Nhạc sĩ Hoàng Trọng đặt cho khi chị bắt đầu hát trong ban Tây Hồ khi mới 15 tuổi. Ca sĩ Quỳnh Giao có giọng hát soprano, thanh, mỏng, có kỹ thuật cao về đơn ca và hát bè. Danh ca Châu Hà đã từng nhận định: "tiếng hát Quỳnh Giao vẫn trong, chưa hề vẩn đục, tôi đặt tên cho giọng hát này là Giọng Hát Thủy Tinh"...
Thơ tình Như Thương vẽ lên những khuôn mặt khác nhau của tình yêu. Dẫu là khuôn mặt nào, người ta vẫn nhận ra thơ Như Thương, vẫn nghe ra lời mời gọi thật quyến rũ của tình yêu. Có khi là thầm lặng, là khép kín như tình riêng... Có khi là bâng khuâng, là vấn vương như tình đầu... Có khi là đằm thắm, là dịu dàng như tình cuối...
Cuốn Thiên Hùng Ca QLVNCH đã được tác giả sắp xếp theo một cấu trúc tuần tự về nội dung khá hợp lý, để dẫn dắt độc giả, nhất là những độc giả còn chưa biết nhiều về lịch sứ Việt Nam cận đại và nguyên ủy cuộc chiến tranh Việt Nam. Những độc giả muốn có một cuốn sách có thể tham khảo ngay về nhiều vấn đề tổng quát của miền Nam và Quân Ðội VNCH, có thể chọn đọc cuốn Thiên Hùng Ca QLVNCH...
Xe đến nơi anh ở, nơi đây hằng ngày anh vẫn đi về thui thủi một mình, nay anh ngang nhiên cầm tay một người đàn bà đẹp dắt về phòng mình, thật là của tự trên trời rơi xuống, anh nghĩ, rồi mai đây, khi gạo đã thành cơm, anh sẽ dung dăng dung dẻ đi bên nàng, đến mọi nơi chốn, có bạn bè và những người thân quen, anh sẽ hãnh diện giới thiệu với mọi người, ''Đây là bà xã tôi'', và trong một dịp vui nào đó, Hoa sẽ ôm đàn và hát những tình khúc của nàng, còn anh sẽ đọc thơ anh để phụ hoạ...
Tôi đọc hết những tập do Thư Ấn Quán in và xuất bản, gởi tặng tôi, tôi mới thấy công trình của nhà văn Trần Hoài Thư thật đáng cảm phục và cả tấm lòng đối với văn học miền Nam trước bảy lăm. Những bạn văn thuở ấy, bây giờ sống ở trong nước vất vưởng như những chiếc bóng. Không người nào ngất đầu lên nổi nếu không chấp nhận phục tùng chế độ... Hôm đó là thứ bảy, tôi đến sớm cùng Thành Tôn, Nguyễn Nam An, Đạm Thạch, sau đó có Nguyễn Lương Vỵ, Nguyễn Mạnh Trinh, Huỳnh Hữu Ủy, Hồ Thành Đức… Thì Trần Hoài Thư đến cùng vợ. Bốn mươi mốt năm, thầy vẫn cao lênh khênh, tóc có bạc đi, mắt kiếng cận có dầy thêm, nhưng nhìn thầy tôi vẫn nghĩ đến người của bốn mươi mốt năm trước...
Có thể người ta đi qua cây thập tự giá mà không cần ghi nhớ, vì có nhiều cây tương tự được dựng rải rác bên những con đường tại xứ Lithuania này. Nhưng hình bóng của Chúa Giê-Su trên cây thập tự giá này lại thu hút sự chú ý của mọi người: người ta khó có thể vượt qua nó mà không dừng lại hoặc ít nhất là liếc nhìn lại vài lần. Tượng Chúa bằng gỗ rất khác thường, thậm chí ngày nay tôi không hiểu tại sao nó không bao giờ trở nên nổi tiếng trên thế giới...
Hơn ai hết cho người y sĩ với lời thề thì họ cũng phải dâng hiến cuộc sống của họ khi có sự hiểm nguy. Đó là nói về phần nghề nghiệp, nhưng trên hết là trái tim đồng loại, và trong hoàn cảnh như thế đã gây cho tôi một sự xúc động mãnh liệt, và tôi cũng cầm bút ghi lại những cảm xúc của mình và chỉ biết thốt lên những điều cảm ơn và tri ân vì đây là dịp để chúng ta thể hiện tình cảm của chúng ta... Đó là lý do tôi viết lên ca khúc “Triệu Lời Tri Ân”...
Khi còn ở Boston, anh là một trong những thành viên tích cực trong các sinh hoạt cộng đồng và là “mạnh thường quân” cho các sinh hoạt văn nghệ. Mỗi lần có bạn văn từ xa tới để thăm viếng hay ra mắt sách, thì ngoài nhà thơ Trần Trung Đạo lo điều hành tổng quát, Phan Xuân Sinh gần như bao sân những chuyện còn lại, từ đưa đón, ăn ở cho đến tiệc tùng, thăm viếng... Giữa thập niên 2000, anh chuyển công việc làm ăn về Texas; thiếu anh, Boston dường như lắng xuống. Ngược lại, có anh, Houston khởi sắc lên...
Tôi biết nhà thơ Trần Dzạ Lữ trước những năm 1975 khi đọc các bài thơ anh trên tạp chí Văn Học, Văn, Tuổi Ngọc... vì lúc đó tôi cũng có bài đăng trên tạp chí tuần báo này nhưng chưa có dịp gặp mặt anh ở ngoài đời bao giờ. Tôi còn nhớ đọc bài thơ “Bữa Cơm Ngoài Chiến Trường” của anh trên tạp chí có mấy câu mà tôi rất thích...
Sau 1975 thì người Mỹ muốn lái sự oán hận mất nước của nhân dân Miền Nam vào ông TT Nguyễn Văn Thiệu và quân đội VNCH để quên đi hành động “bán đứng đồng minh” của Mỹ (lời của TT Nguyễn Văn Thiệu nói thẳng vào mặt Kissinger năm 1972). Họ vận động các phương tiện truyền thông tiếng Việt tại hải ngoại kết án ông Thiệu làm cho mất nước. Họ kết án quân đội VNCH hèn nhát, tham nhũng… ...
Trong những lần kể chuyện của mình, nhạc sĩ Giao Tiên thú thật rằng cô Thắm, một hình ảnh duyên dáng làng quê và gần gũi, là cách mà ông luôn diễn đạt sự thương yêu của ông với vợ và các chị, những người phụ nữ đã nâng đỡ và chia sẻ với ông để có một Giao Tiên hôm nay... Thật cũng độc đáo, khi sự nghiệp âm nhạc của một người lại có rất nhiều tác phẩm ca ngợi vợ mình như vậy. Nếu xét về kỷ lục VN, nhạc sĩ Giao Tiên có thể là người đứng đầu chủ đề sáng tác về hiền thê...
Bài Mới
Ảo giác Trịnh Công Sơn (Lê Hữu) Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc (Vương Trùng Dương) Trịnh Y Thư: Những mối tình trong “Đường về thủy phủ” (Phan Tấn Hải) Đọc sách “Sài Gòn không phải ngày hôm qua” của Phúc Tiến (Nguyễn Văn Tuấn) Đọc “Cùng nhau đất trời” của Khánh Trường (Song Thao) Ngôn ngữ thơ là cái quái gì vậy? (Lê Hữu) Nguyễn Đình Nghĩa - Bắt Đầu... Từ Một Đêm Trăng (Phan Nhật Nam) Theo Ngọn Sóng (Trần Hồng Văn) Vẫy Tay Ngậm Ngùi (Hương Thủy) DANH NGÔN (Proverbs)
• Chí Khí • Xử Thế
|
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Về Kinh Bắc (Hoàng Cầm)
Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt (Lưu Quang Vũ)
Đêm Giữa Ban Ngày (Vũ Thư Hiên)
Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất (Nguyễn Khải)
Chuyện Kể Năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn)
Hậu Chuyện Kể Năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn)
Ba Người Khác (Tô Hoài)
Đèn Cù - I (Trần Đĩnh)
Đèn Cù - II (Trần Đĩnh)
Thời Của Thánh Thần (Hoàng Minh Tường)
Trần Đức Thảo - Những Lời Trăng Trối
(Tri Vũ - Phan NGọc Khuê)
Chế độ kiểm duyệt sách báo tại Việt Nam
(Nguyễn Hưng Quốc)
Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm (Thuỵ Khuê)
Thụy Khuê và Nhân Văn Giai Phẩm (VietNam Film Club)
Phim tài liệu (VietNam Film Club, 2013):
Tập I: Nhân Văn Giai Phẩm
Tập II: Cải Cách Ruộng Đất
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |