02-03-2013 | NHÂN VẬT
Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng
HÀ MAI PHƯƠNG & LƯU CHU THANH TAO
LỜI DẪN NHẬP:
 Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Nét vẽ Lê Bá Đảng, Paris, 1952. (Tài liệu của tạp chí Khởi Hành)
Trong dòng sử Việt, công cuộc kiến quốc bắt đầu bởi
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 40 Tây lịch là cuộc nổi
dậy đầu tiên của dân tộc Việt chống lại sự đô hộ của người Hán ở
phương bắc, mở đầu cho các cuộc nổi dậy kế tiếp, cho tới chiến
thắng Bạch-Đằng Giang của Ngô Quyền mở đầu cho nền tự chủ và
độc lập của nước Việt Nam ta vào năm 939.
Cuộc Khởi Nghĩa của HAI BÀ TRƯNG
Theo thần tích và sử ký, bà Trưng Trắc và em là Trưng Nhị
(cũng gọi là Trưng Chắc và Trưng Nhì), là con gái Lạc tướng huyện
Mê Linh. Hai Bà Trưng quán làng Cổ Lai, đất Mê Linh; nay thuộc
làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Yên. Theo thần tích làng
Hạ Lôi, Hai Bà Trưng là chị em sinh đôi. Thân mẫu của Hai Bà là
bà Man Thiện, chắt ngoại của vua Hùng Vương. Tương truyền bà
Man Thiện góa chồng sớm, rất đảm đương và truyền dạy cho Hai
Bà tính khí rất hùng dũng. Chính bà Man Thiện đã từng ủng hộ
con rể là ông Đặng [?] Thi Sách chống lại sự tham tàn của Thái thú
Tô Định và góp công rất nhiều trong đại cuộc khởi nghĩa của Hai
Bà Trưng. Năm 19 tuổi, Trưng Trắc kết hôn với ông Đặng Thi Sách
con trai Lạc tướng Châu Diên [nay thuộc vùng phủ Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Yên]. Ông Thi Sách là người rất có chí khí, làm huyện
lệnh Châu Diên.
Kể từ khi nước Nam Việt của họ Triệu bị nhà Tây Hán đô hộ
vào năm 111 trước Tây lịch cho tới cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng, người Hán đã đô hộ nước ta trên 150 năm. Bấy giờ chính
sách cai trị của nhà Đông Hán ở đất Giao Chỉ [tức Bắc phần Việt
Nam ngày nay] mỗi ngày một khắt khe. Họ áp dụng chính sách
trực trị và tìm cách đồng hóa người Lạc Việt. Chính sách này đã
gây nên sự chống đối của dân ta, nhất là sự chống đối của các Lạc
hầu, Lạc tướng đã bị người Hán tước bỏ mọi uy quyền.
Nguyên nhân đưa tới cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng là sự
cai trị hà khắc của Thái thú Tô Định [được cử sang Giao Chỉ vào
năm 34]. Y là người bạo ngược và tàn ác khiến dân chúng rất oán
giận. Ông Thi Sách có gửi thư phản kháng Tô Định và chính sự
chống đối này mà ông Thi Sách bị Tô Định giết hại.
Theo Thiên Nam Ngữ Lục [một thiên anh hùng ca, khuyết
danh, viết khoảng thế kỷ XVI], vì Thi Sách đã bỏ nhiều "phiên
hầu" với quan Thái thú, nên ông đã bị Tô Định giết. Chính vì vậy
mà bà Trưng Trắc đã quyết tâm khởi nghĩa đánh đuổi quân thù để
"đền nợ nước và trả thù nhà". Thiên Nam Ngữ Lục mô tả mục tiêu
cuộc khởi nghĩa của bà Trưng Trắc như sau:
Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này...
Năm 40 [kỷ nguyên Tây lịch], bà Trưng Trắc đã khởi binh ở
Mê Linh và tập trung quân ở cửa Sông Hát [chỗ ngã ba Sông Nhị
và Sông Đáy]. Cuộc nổi dậy của Hai Bà được sự hưởng ứng rộng
lớn của nhiều quan lang và phụ đạo [tức các tù trưởng lãnh đạo
người Lạc Việt thời bấy giờ]. Theo Hậu Hán Thư [tức lịch sử thời
Hậu Hán] thì dân chúng khắp vùng Giao Chỉ [Bắc phần Việt Nam],
Cửu Chân, Nhật Nam [bắc Trung phần Việt Nam] đều nổi dậy
hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Từ Mê Linh hai bà tiến-công thành Liên Lâu [ở phủ Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh] là thủ phủ của Thái thú Tô Định. Tô Định
phải bỏ cả ấn tín, chạy trốn về Nam Hải [thuộc tỉnh Quảng Đông
bên Tàu ngày nay]. Không lâu Hai Bà thu được 65 thành trì [ở Giao
Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam] và cả ở Hợp Phố [phía nam tỉnh Quảng
Đông ngày nay]. Dẹp xong quân Đông Hán, bà Trưng Trắc được
tôn lên làm vua, gọi là Trưng Nữ Vương; đóng đô ở Mê Linh, tổ
chức mọi việc cai trị như một quốc gia độc lập, mở đầu một trang
sử huy hoàng cho dân tộc Việt Nam vì Bà Trưng là người đầu tiên
trong Việt sử đứng lên đánh đuổi quân Tàu sau 150 năm bị người Hán
đô hộ... Trong những năm đầu, Trưng Nữ Vương đã xá thuế cho
dân chúng, phong cho Trưng Nhị làm Bình Khôi công chúa; tướng
Đô Dương trấn giữ vùng Cửu Chân [tức vùng tỉnh Thanh Hóa
ngày nay] để phòng thủ mặt Nam; Thánh Thiên Công chúa đóng
quân ở Hợp Phố để phòng bị mặt Bắc; nữ tướng Lê Chân làm
Chưởng quản binh quyền trông coi mọi việc ở Giao Chỉ.
Đầu năm 42, vua Hán Quang Vũ sai Mã Viện đem quân sang
đánh chiếm nước ta. Mã Viện hay Mã Văn Uyên; danh tướng nhà
Hán, từng đánh dẹp được cuộc nổi dậy của bộ lạc người Khương ở
phía Bắc nước Tàu; tước của Mã Viện là Phục Ba tướng quân
[nghĩa là ông tướng có tài chinh phục được những làn sóng dử].
Mã Viện cùng phó tướng Lưu Long và Lâu Thuyền tướng quân
Đoàn Chí [vị tướng chỉ huy chiến thuyền có lầu]. Mã Viện hội
quân thủy bộ ở Hợp phố rồi đem binh sang Giao Chỉ đánh báo
thù. Chiến trận diễn ra ờ vùng Liên Lâu và Lãng Bạc [thuộc huyện
Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nayj. Quân Hai Bà đã chiến đấu và
cầm giữ địch quân trong vòng 10 tháng; Mã Viện phải lui binh về
cố thủ Lãng Bạc, còn quân của Hai Bà thì phòng giữ ở Cấm Khê
[hay Cẩm Khê, thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên ngày nay].
Sau khi chỉnh đốn quân ngũ, Mã Viện lại tiến công Cấm Khê quyết
liệt; Hai Bà chống không nổi, chạy tới xã Há môn [nay là huyện
Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây], gieo mình xuống Sông Hát tự trầm vào
ngày mồng 6 tháng 2 năm Quý Mão, tức năm 43 Tây lịch. Khi đó
bà Trưng Trắc mới có 29 tuổi. Các nữ tướng nổi danh của Hai Bà
như Thánh Thiên, Lê Chân đều tuẫn tiết cả. Vào cuối năm 43, Mã
Viện chiếm Yên Mô [thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay] và tiến đánh
Cửu Chân, tướng Đô Dương chống không nổi, bị bắt và bị giết ở
huyện Cự Phong.
Ba năm tự chủ [40-43] tuy ngắn ngủi, nhưng ngọn lửa thiêng
ái quốc của Hai Bà Trưng đã hun đúc tinh thần chiến đấu quật
cường của dân tộc Việt qua những cuộc nổi dậy giành độc lập sau
này của Bà Triệu, Triệu Việt Vương, Bố Cái Đại Vương, Ngô Quyền...
Bàn về Hai Bà Trưng, sử gia Lê Văn Hưu trong Đại Việt Sử
Ký, ca tụng Hai Bà như sau: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là phụ nữ, hô
một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65
thành ở lãnh ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ
như trở bàn tay, đủ biết là hình thế đất Việt ta có thể dựng được
cơ nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ
Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chịu cúi đầu bó
tay, làm thần bộc cho người phương Bắc. há chẳng xấu hổ với hai
chị em họ Trưng là đàn bà ư! Ôi có thể gọi là tư bó mình vậy."
Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ngoại Kỷ), nhận
xét về Hai Bà như sau: "Họ Trưng giận Thái thú nhà Hán bạo
ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta xuýt được
khôi phục, khí khái anh hùng không những là lúc sống dựng nước
xưng vương mà sau khi chết có thể chống ngăn tai hoạn, phàm
gặp những việc tai ương hạn lụt, đều cầu đảo không việc gì là
không ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức
hạnh kẻ sĩ, các khí hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân
chết mà kém đi. Bọn đại trương phu chẳng nên nuôi lấy cái khí
phách cương trực chính đại ư?".
Ngô Thời Sỹ trong Việt Sử Tiêu Án cũng ca ngợi Hai Bà như
sau: "Bà Trưng la người con gái góa ở Giao Chỉ, không có một
thước đãt, chỉ vì báo thù chồng mà khởi binh đánh một trận, mà
cả 6 quận đều theo, định được 65 thành dễ như lấy đồ trong túi,
làm cho bọn quan lại thú úy cai tri trong thời gian 150 năm phải
bó tay không dám làm gì, có phải lòng trời tựa Lạc Việt, thì có thể
lấy cả được Kinh, Dương, đâu lại chỉ có đất Ngũ Lĩnh mà thôi...
Trong sách Bắc-sử về đời nhà Hán, Đường cũng có vua đàn bà,
như họ Lã, họ Vũ, nhưng đều là nhờ thế đã làm mẫu hậu rồi, mà
nắm lấy quyền nhân chủ, thì dễ lung lạc được trong nước, múa
may với đàn trẻ. Đến như Bà Trưng là một người đàn bà thường
mà khởi lên được thì khó lắm. Xem trong Nam sử khi nội thuộc
Lương và Trần, có ông Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, sẵn là cường
hào hay là gia thế, lòng người đã sẵn quy phục, thế nưóc đã có hơi
xu hướng mà khởi lên còn có phần dễ, đến như Bà Trưng là con
gái thì lại khó lắm... Vợ trả thù chồng, em giúp việc chị, một là tiết
phụ, một là nghĩa nữ, vào cả một nhà, thế mới là kỳ. Ông vua bị
mất nước, hoặc là bị bắt, hoặc là đầu hàng; con gái ở cảnh nhà
tan, hoặc phải bỏ đi, hoặc bị tủi nhục. Bà chị mất nước, bà em
cũng tuẫn tiết theo chị, không chịu đầu hàng, mà cũng không chịu
để bị bắt; người chồng ở dưới đất được nhắm mắt; kẻ gian tà
trông thấy thế cũng phải cúi đầu. Vua tôi Văn Thúc (tướng Hán)
không làm gì nổi. Chết rồi mà tiếng thơm vẫn còn. Thế mới càng
kỳ nữa. Than ôi! Hồng nhan trẻ đẹp xưa nay chôn vùi đã bao
người. Nhưng Nữ Oa có việc động trời đến giờ, chỉ có hai chị em
Bà Trưng nữa đây thôi."
Trong bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, vua
Tự Đức "châu phê" về Hai Bà Trưng như sau:
"Hai Bà Trưng là bậc quần thoa lại có thể hùng tâm khởi
nghĩa, làm chấn động triều đình nhà Hán, tuy yếu thế nghịch thời,
cũng đủ hưng khởi người lưu danh rạng rỡ ở sử sách. Kết bọn đàn
ông râu mày lại khúm núm thờ phụng người ngoại tộc, chẳng
cũng mặt dày hổ thẹn đến chết ư?"
Sử Tàu (sử do người Tàu viết) vốn rất chủ quan và đối lập
với chúng ta, cũng phải công nhận giá trị của cuộc nổi dậy của Hai
Bà Trưng. Sách Hậu Hán Thư chép: "... Trưng Trắc là con quan
Lạc tướng huyện Mê Linh, gả làm vợ Thi Sách, người huyện Châu
Diên . Trưng Trắc là người rất hùng dũng...". Sách An Nam Chí
Nguyên chép: "... Tô Định là người tham bạo đến nỗi người
con gái ở Giao Chỉ là Trưng Trắc và Trưng Nhị phải nổi lên làm phản."
Hiện nay, còn hai đền chính, thờ Hai Bà Trưng ở làng Đồng
Nhân [thuộc quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội] và đền thờ ở
làng Hát Môn [thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây cũ].
Đền Hai Bà Trưng ở Đồng Nhân được dựng từ thời nhà Lý
[l010-l224]. Theo Việt Điện U Linh, "Vua Lý Thánh Tông
nằm mộng thấy Hai Bà linh ứng nên cho lập đền thờ ở bãi Đồng Nhân
hay Đồng Nhân Châu, phía đông nam kinh thành Thăng Long."
Vùng bãi này năm nào cũng bị ngập lụt và gây nạn đất lở, do vậy
sau này đã dời đền vào địa điểm hiện tại, thuộc thôn Huơng Vân,
làng Đồng Nhân, nay là phố Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội. Trong đền có tượng Hai Bà đắp bằng đất son.
Tượng bà Trưng Trắc mặc áo vàng và tượng bà Trưng Nhị vận áo
đỏ. Trên đầu tượng có đội mũ cài hoa phù dung. Chung quanh
tượng Hai Bà còn có tượng 12 vị nữ tướng.
Đền còn lưu bài thơ Đề Đền Hai Bà của Cử nhân Hoàng
Thúc Hội như sau:
Núi Sóc ngựa lên không,
Rừng Thanh voi chửa lồng.
Nảy chồi hoa núi Lạc,
Rạng mặt nước non Hồng.
Giăng tỏ gương hồ Bạc,
Mây che giấu cột đồng.
Nén hương lòng cố quốc,
Xin khấn một lời chung.
Và bài thơ quốc âm về Hai Bà như sau:
Một bụng em cùng chị,
Hai vai nước với nhà.
Thành Mê khi đế bá,
Sông Cấm lúc phong ba.
Ngựa sắt mờ non Vệ,
Cờ lau mở động Hoa.
Ngàn năm bia đá tạc,
Công đức nhớ Hai Bà.
[GHI CHÚ:
Các bài thơ trên ca tụng công đức Hai Bà và có ý
nói sau chiến thắng của Phù Đồng Thiên Vương ở núi Sóc Sơn hay
Vệ Sơn, thì cuộc nổi dậy của Hai Bà ở Mê Linh, chiến thắng ở hồ
Lãng Bạc và kể cả sự thất trận ở Cấm Khê, đã mở đầu cho việc
dựng nước non Lạc Hồng; nối tiếp bởi cuộc nổi dậy của Bà Triệu ở
Thanh Hoá và công cuộc thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh
tức vua Đinh Tiên-Hoàng ở động Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Tuy Mã
Viện có chôn cột đồng ghi chiến công, nhưng nay cũng không còn].
Đền Hát Môn [hay Đền Hát] ở trên gò đất bên chân đê
thuộc hữu ngạn Sông Hát [Hát Giang hay Sông Đáy] thuộc xã Hát
Môn, tổng Phù Long, huyện Phúc Lộc, phủ Quảng Oai, trấn Sơn
Tây; sau thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây; nay thuộc tỉnh Hà
Tây. Tương truyền, trước khi khởi nghĩa, Hai Bà đã lập đàn thề ở
bãi Trường Sa bên Sông Hát thuộc xã Hát Môn. Cũng tương truyền
đền được dựng từ thời Tiền Lê và Lĩnh Nam Chích Quái cũng cho
biết là đền được dựng từ lâu; đại trùng tu dưới đời vua Lê Thần
Tông [theo bia ở đền năm 1621]. Cổng đền Hát Môn có hai cột trụ
đề câu đối: Đồng trụ chiết hoàn Giao Lĩnh trĩ, Cấm Khê doanh hạc
Hát Giang trường [đại ý là: Cột đồng Mã Viện gãy hay còn, núi
Lĩnh Nam đời đời vẫn cao ngọn; Khe Cấm Khê đầy hay vơi, dòng
Sông Hát vẫn còn mãi mãi vươn dài]. Trước đây, hàng năm hội
Đền Hát vào ngày giỗ Hai Bà [mồng 6 tháng 3 âm lịch] và kỷ niệm
ngày hội quân khởi nghĩa chống quân Đông Hán mồng 4 tháng 9
âm lịch. Khác với đền Đồng Nhân, tượng và các đồ thờ ở đền Hát
Môn dùng màu đen để tưởng nhớ tới sự tử tiết của Hai Bà.
Ngoài ra, khắp Bắc phần Việt Nam, theo Địa Dư Các Tỉnh
Bắc-Kỳ, các địa phương chí và các Thần tích ở địa phương do
người Pháp thu thập trước năm 1945, có hàng trăm làng xã thờ
Hai Bà Trưng, bà Man Thiện và các vị tướng của Hai Bà mà chúng
tôi mới chỉ sưu tập được một số, ghi trong bộ Bách khoa Từ điển
Địa Danh Việt Nam [trên 10.000 trang; hoàn tất năm 2006, chưa có
cơ hội xuất bản].
Với số thần tích làng xã có thờ cúng Hai Bà và các vị tướng
của Hai Bà cách nay trên 2000 năm, điều đó chứng tỏ tinh thần
đối kháng phương Bắc để được tồn tại và kiến quốc của người Việt
mình. Ngoại trừ hai đền thờ Hai Bà ở Đồng Nhân và Hát Môn nức
tiếng từ trước; tiếc rằng, từ sau kỳ "cải cách ruộng đất" và chống
Phong kiến sau năm 1954 ở miền Bắc Việt Nam, không rõ vô tình
hay cố ý mắc mưu Trung-Cộng, đảng Cộng sản Việt Nam đã cho
dẹp bỏ hết hệ thống thờ cúng ở các đình thôn, làng, xã; cộng thêm
sự "thay đổi địa danh hành chính ở các địa phương cho hợp với
tình thế mới", khiến cho việc nhớ tới và thờ cúng các vị anh hùng
dân tộc ở các địa phương có công chống phương Bắc, dựng nước
Lạc Hồng đã bị chìm dần vào quên lãng. Sau đây là:
Các Làng Thờ Hai Bà Trưng:
- Huyện Mê Linh [Yên Lãng và Yên Lạc cũ]: Cấm Khê, Cư
An, Hạ Lôi, Cổ Lôi, Trường Sa, Nại Tử, Lâu Thượng, Đông Cao,
Nguyễn Xá, Trung Hà, Hát Môn, Hát Giang, Xuân Đài.
- Huyện Cẩm Khê: Kim Khê.
- Huyện Bình Xuyên: Thành Dền, Thanh Lãng, Quất Lưu, Tam Hợp.
- Huyện Phù Ninh: An Phú, Lâu Hạ.
- Huyện Ba Vì: Tuấn Xuyên.
- Huyện Thạch Thất: Bãi Trận, Bình Xá.
- Huyện Cẩm Giàng: Bình Lâu, Bình Lao.
- Huyện Yên Việt: Bắc Lý.
- Huyện Tam Nông: Hương-gia.
- Huyện Đa Phúc: Xuân Dương.
- Huyện Đông Anh: Đại Vĩ.
- Huyện Đan Phượng: Khánh Hiệp, Kẻ Gối [Tân Hội].
- Huyện Mỹ Văn: Phụng Công.
- Huyện Mỹ Lộc: Đông Mặc.
- Huyện Thần Khê: Phúc Khánh.
- Huyện Duyên Hà: Tiên La.
- Tỉnh ly Thái Bình: Chùa Bố.
- Tỉnh Hà Nam: Phủ Bà.
- Thị trấn Phiên Ngung [ở Quảng Châu] bên Trung Quốc.
Các làng thờ bà Man Thiện [thân mẫu của Hai Bà Trưngj:
- Huyện Tùng Thiện: Nam An.
- Huyện Phúc Thọ: Nam Nguyễn.
Các làng thờ các vị tướng của Trưng Nữ Vương:
- Huyện Yên Lãng: Kim Đà, Tráng Việt, Phú Mỹ, Cổ Lôi, Nhật
Chiêu, Tiên Nga, Hoàng Kim, Yên Nhân, Trung Hà, Trung Hà
Châu, Bồng Mạc, Cự An, Tam Đồng.
- Huyện Phù Ninh: Lệ Mỹ.
- Tỉnh Vĩnh Yên: Tam Hợp.
- Huyện Bình Xuyên: Thanh Lãng, Xuân Hòa, Quất Lưu.
- Huyện Bạch Hạc: Lũng Ngoại, Lũng Hòa, Hưng Lại.
- Huyện Thanh Ba: Thanh Cù, Thanh Vân, Lương Lỗ, Vũ Yển.
- Huyện Hạ Hòa: Văn Lang.
- Huyện Yên Dũng: Tân Mỹ, Ngọc Lâm.
- Huyện Hiệp Hòa: Bắc Lý.
- Huyện Phúc Thọ: Long Xuyên Vĩnh Thọ.
- Huyện Quảng Oai: Vân Sa.
- Huyện Tiên Phong [nay thuộc huyện Ba Vì]: Tuấn Xuyên.
- Huyện Thạch Thất: Bình Xá.
- Huyện Lập Thạch: Hợp Lý.
- Huyện Tam Nông: Hương Nộn, Xuân Nha, Hương Nha,
Ngọc Tháp, Cổ Tiết, Thanh Uyên, Nam Cường, Vực Thường, Hiền Quan.
- Huyện Tam Dương: Đồng Tĩnh.
- Huyện Yên Sơn: Khánh Hiệp, Chử Thị.
- Huyện Đông Anh [Đông Ngàn cũ]: Hội Phụ, Gia Lộc, Trung
Am, Lộc Hà, Cổ Châu, Hội Phụ, Gia Lộc, Tiên Dương, Cẩm Giang.
- Huyện Tiên Du: Cẩm Giàng.
- Huyện Gia Lâm: Cự Linh, Hoàng Xá, Xuân Đỗ, Xuân Thụy,
Long Biên, Lệ Chi, Kim Hồ, Đa Tốn, Ngọc Động.
- Huyện Thanh Trì: Yên Phú, Vĩnh Ninh, Vĩnh Quỳnh, Thâm
Động, Mai Động.
- Huyện Thanh Oai: Thượng Thanh Thần.
- Huyện Đan Phượng: Đan Phượng Thượng.
- Huyện Hoài Đức: Cát Ngòi, Dương Liễu.
- Huyện Từ Liêm: Hạ Trì, Đại Mỗ, Yên Nội, Nghĩa Lộ, Phú
Mỹ, Cơ Xá, Vạn Phúc.
- Huyện Gia Lương [Gia Bình và Lương Tài cũ]: Đông Cứu,
Bình Dương, Lai Hạ, Phú Hòa, Minh Tân, Nhân Thắng, Thập Đình,
Thiên Thai, Phùng Xá, Địch Trung, Huề Đông, Thận Trai.
- Huyện Khoái Châu: Yên Khê, Việt Hòa, Tự Nhiên, Việt Hòa.
- Huyện Kim Thi [Kim Động và Ân Thi cũ]: Phú Cốc, Tân La.
- Huyện Yên Mỹ: Nhân Hòa Trung.
- Huyện Nam Trực: An Phú.
- Huyện Giao Thủy: Quán Các.
- Huyện Trực Ninh: Hương Cát, Hùng Mỹ.
- Huyện Thư Trì: Văn Xá, Mỹ Lộc, Mỹ Bổng, Tăng Bổng,
Thuận Vi, Hương Điền, Dũng Thúy, Thái Phú, Hương Đường,
- Huyện Hưng Nhân: Hiền Ninh, Hiển Lễ, Phượng Lâu, Lương Ngọc.
- Huyện Duyên Hà: Tĩnh Xuyên, Tĩnh Thủy.
- Huyện Thần Khê: Cổ Xá.
- Huyện Quỳnh Côi: Đồng Trực.
- Huyện Đông Hưng: Thưởng Duyên, Thâm Động, Thượng Phán.
- Huyện Thanh Liêm: Thạch Tổ, Thượng Tổ.
- Huyện Gia Viễn: Sơn Dược.
- Huyện Yên Mô: Vĩnh Lộc, Trung Đồng, Bình Hải, Bình Hòa.
- Huyện Giáp Sơn: Quỳnh Bảo.
- Huyện Kinh Môn: An Phụ, Huệ Trì.
- Huyện An Lão: Ngọ Dương.
- Huyện Nga Sơn [tỉnh Thanh Hóa]: Nga An...
Hà Mai Phương & Lưu Chu Thanh Tao
Tạp chí Văn Hóa Việt Nam số 40 (MÙA XUÂN 2008)

|