Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp
Hồ Hữu Tường
03-12-2010
1.
Giữa một đường truông thăm thẳm vắng
vẻ, âm u, không một xóm nhà ít người
qua lại, có một cái am nhỏ . Am ấy mới
cất độ non ba năm thôi. Trong am chỉ có một
cụ sư già , thui thủi một mình, quanh năm chẳng
được ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân,
chất sẵn một đống củi, vừa lớn vừa cao ngất,
củi xếp rất vuông vắn, thẳng thắn dường như
được chăm sóc chẳng khác nột vườn kiểng do
một vị lão trưởng giả chăm nom.
Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn
được một chặp thì có hai người khách đến trước
ngưỡng cứa vái mà thưa rằng:
- Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi
mới dõi đến đây. Mong nhờ sư cụ, cho tá túc một
đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.
Nhà sư ung dung chấp tay đáp:
- Mô Phật, cửa thiền bao giờ cũng mở rộng
cho người lỡ bước.
Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi
vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp:
- Ngót ba năm nay tôi mở am nơi này, không
được một ai đến viếng. Ngày nay là ngày ước
nguyện, may được hai ngài quá bước ghé nghỉ
chân. âu cũng là duyên trước ...
Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách
dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách
đến câu hỏi:
- Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh
nào?
Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm nhà sư đáp:
- Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có
thể nói rằng đã viếng khắp nơi. Cách ba năm
nay lòng huệ được mở ra ... Và từ ấy tôi chỉ tụng
kinh Di Lặc.
Một người khách hỏi:
- Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao
chăng?
- Mô Phật. Chỉ có lời nói mà độ được người,
sao tôi dám tiếc lời ! Vây tôi xin vui lòng mà nói
cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách,
thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: hai
nghìn năm trăm năm về sau Phật pháp sẽ đến
chỗ chi li: ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống
trần cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại. Nay kể
cũng gần đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di Lặc đã
xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi vì lẽ
ấy cho nên tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần
kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được y, ấy là tôi sẽ
đắc đạo.
Người khách thứ hai hỏi:
- Sư cụ đã tụng được bao nhiều lần rồi?
- Đã được chín trăm chín mươi chín lần. Bây
giờ, chỉ còn lần thứ một nghìn: lần tụng của đêm
nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành đêm nay
đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy.
Đến đây, bữa cơm chay đã mãn. Khách mệt
mỏi, xin ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am cho
thanh khiết, rồi bước lại trước bàn Phật, khêu bấc
đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng tụng
kinh chậm rãi như nện vào không gian. Thỉnh
thoảng một tiếng chuông ngân lên, đánh dấu chuỗi
tiếng mõ dài đăng đẳng ...
2.
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn
trao đổi vài câu:
- Tội nghiệp thay cho cụ sư già, quá mê tín,
mất sáng suốt mà không giác ngộ. Phật pháp lập
ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước tránh sao
cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy có chỗ lỗi
thời, các môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát xiển mối
đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ; rồi
sinh ra môn, ra phái, ấy là nguồn gốc của sự chi
li. Nay rừng thiền có hơn tám mươi bốn nghìn cội
khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
- Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ
thêm rằng: nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống
trần thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp
cho cao kịp với sự tiến hóa của mọi việc từ hơn
hai nghìn năm nay. Và trách nhiệm của mỗi tín
đồ của Phật là dọn mình cho sẵn để đón rước cái
pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ
mõ tụng kinh, há chẳng phải phụ lòng mong mỏi
của Thích Ca chăng.
Lời nói của hai người khách, giữa một cái am
vắng vẻ không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe
trộm này là một con thằn lằn, đến ở am, khi am
vừa mới dựng lên, và đã nghe chín trăm chín mươi
chín lần kinh nên có linh giác, nghe được tiếng
người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình
của hai người khách đã giúp cho con thằn lằn
giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là
hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên
giàn hỏa mà tự thiêu... Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng
còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân,
thì làm sao nhập được Niết Bàn. Hay là ta tìm thế
ngăn người, đừng để cho người thiêu thân, đợi
chừng nào người giác, rồi sẽ hay.
Rồi con thằn lằn quyết định phải ngăn ngừa,
đừng để cho nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn.
Nó nghĩ được một kế: ấy là nó bò lên bàn Phật,
đến đĩa đèn dầu, ráng sức uống cạn đĩa dầu. Bấc
sẽ lụn, đèn tắt nhà sư không thấy chữ mà tụng
nữa.
Một sức mầu nhiệm đã giúp con thằn lằn đạt
được ý nguyện: chỉ trong một hơi mà đĩa dầu đã
cạn, bộ kinh chỉ mới tụng quá nửa mà thôỉ. Đèn
tắt nhà sư ngạc nhiên, nhưng nghĩ: hay là hai
người khách là kẻ phàm tục, không được duyên
lành chứng giám việc đắc đạo của mình. Âu là
xếp kinh nghỉ,chờ ngày mai khách lên đường sẽ
tụng lần thứ một nghìn ấy.
Nhưng sau đó, đêm nào cũng vậy, buổi kinh
đọc chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có lúc
tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng
nhớ lại rằng khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh
vào khuya, tĩnh mịch nên không dám đổi.
Và một đêm kia dằn lòng không được, tuy tụng
kinh mà mắt chốc chốc nhìn đĩa dầu để xem sự
thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà
uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ,
mà mắng rằng:
- Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không
cho ta được đắc đạo!
Rồi tay cầm dùi mõ nhà sư nhắm ngay đầu
con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh
vỡ đầu chết ngay. Hôm ấy nhà sư tụng xong lần
kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.
3.
Và cũng đêm ấy hai cái linh hồn được đưa đến
trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm ngài gọi nhà
sư mà dạy:
- Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng
hiểu bài học vỡ lòng của Pháp ta là thế nào! Pháp
ta đã dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo,
mà ngươi lại dục vọng quá nhiều: bởi việc muốn
đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một cái
dục vọng. Có dục vọng ấy là THAM; bởi tham
nên giận mắng con thằn lằn ấy là SÂN; bởi sân
nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ
tụng kinh rồi đắc đạo, ấy là Si. Có đủ THAM,
SÂN, SI tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn
chạy trường trọn đời cũng chưa bù được.
Tội của ngươi lớn lắm phải tu luyện rất nhiều
mới mong chuộc được. Vậy ta truyền cho Kim
Cang, La Hán hốt hết đống tro đó tung khắp bốn
phương trời. Mỗi hột tro đó sẽ hóa sanh làm một
người. Chừng nào mọi người ấy được đắc đạo
đám chúng sanh ấy sẽ được quy nguyên, trở lại
hiệp thành một, thì nhà người sẽ đến đây mà thành
chánh quả.
Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
- Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy
đáng giá là một mà thôi. Còn nhà ngươi được
nghe lời hai người khách được giác một phần
rồi, mà làm tội, tội ấy đáng mười.
- Bạch Phật Tổ lòng của đệ tử muốn độ nhà
sư, dầu nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ
tử có tội chi?
Phật phán:
- Muốn độ người kể thiếu chi cách, sao người
ngăn đón việc tụng kinh của người? Đã đành rằng
tụng kinh như nhà sư là một việc mê tín, song vẫn
là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là cõi tự tại, nếu
phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi để dắt người vô,
thì làm sao cho được? Bởi ngươi không dùng
phương pháp tự do, ngươi là kẻ mất tự do, thì cả
hai làm sao được vào cõi tư tại.
Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quỳ lạy
mà xin tội:
- Xin Phật Tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa
sanh một kiếp nữa, để dùng phương pháp tư do
mà độ vô số chúng sanh do những hột tro mà các
vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó.
Phật đáp:
- Ta cho ngươi được toại nguyện.
Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi
đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng:
- Xin Phật Tổ dạy để tử phải hóa sanh làm
kiếp chi?
Phật đáp:
- Nhà người đã gần bến giác, phải tự mình
chọn hình thể mà hóa sanh. Tự do chọn lựa mới
có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại.
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không
biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp
tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người,
số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu
ra. Thật chưa hề lúc nào có một linh hồn bị trừng
phạt phải đau khổ đến thế.
4.
Một hôm trong hồi xiêu bạt, hồn con thằn lằn
thấy bóng của một trong hai khách đã đến am
thuở nọ, mà câu chuyện nghe lóm đã làm duyên
cho mình mấy năm đau khổ.
Thằn lằn vội vã bay theo vái chào và kể nỗi
niềm đau đớn:
- Ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có
hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô định này.
Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.
Người đáp:
- Cái khổ của ngươi là ngươi đã phát tâm cứu
độ muôn vàn chúng sanh do những hạt tro mà
đầu thai nên. Tâm ấy là lửa thiêng. Nó đốt lòng
ngươi, cưỡng lại mà cãi, sao cho được? Âu là,
ngươi nghe theo nó mà hành cái hạnh ấy đi!
- Nhưng mà, làm sao bây giờ?
- Bấy lâu nay, ngươi đã nghe tụng kinh. Kinh
dạy bài học căn bản là Bi. Ngươi phải có lòng Bi,
mà thương muôn vàn hột tro ấy!
- Tôi vốn thương nhà sư, mới dại dột mà làm
cho nhà sư phát nộ. Thì tôi cũng sẵn lòng mà
thương muôn vàn hột tro, do xác nhà sư thiêu mà
ra. Rồi tôi cũng sẵn lòng thương những ai mà
những hạt tro ấy đầu thai nên.
- Tốt lắm! Tốt lắm. Đã có Đại Bi, phải thêm có
Đại Trí. Muốn cứu độ muôn vàn hột tro ấy, ngươi
hãy lấy trí mà biết, hiện nay chúng đang đau khổ
cái đau khổ nào? Rồi ngươi lấy Trí, mà tìm biện
pháp nào để cứu độ chúng. Chớ tình thương mà
không có thêm phương pháp để thực hiện tình
thương ấy, thì tình thương chỉ là một sự than khóc
sướt mướt và vô bổ mà thôi.
Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại
ngộ một lần nữa. Nó phóng quang mà nhìn khắp
trần gian, để kiếm xem hiện nay, những hạt tro,
do các vị Kim Cang, La Hán tung rãi đang đầu
thai nên gì, và đang đau khổ do cái gì. Lạ thay,
những hạt tro này, bởi tiền kiếp mắc tội tham sân,
si nên chẳng được đầu thai làm người, lại đầu
thai là lũ chuột. Chúng không được sống dưới
thanh thiên bạch nhật; ngày chúng phải chui rúc
trong hang, tối đến bò ra ăn vụng, ăn vặt. Thế mà
chẳng được yên thân, chúng bị một lão mèo to
tướng, mắt sáng như sao nhìn thấy rõ trong đêm
tối vuốt bén như gươm, tay lẹ như chớp, thêm
thèm thịt chuột ăn bao nhiêu cũng không đã, lão
mèo ngày lừ đừ ngủ, để ban đêm rình chụp chuột
mà ăn tươi nuốt sống. Đời của chuột đã khổ rồi,
mà bị lão mèo càng thêm khổ não, lòng phập
phồng lo sợ. Rút vào hang cả ngày lẫn đêm, thì
đói. Ló ra, thì sợ mèo chụp ăn. Hồn con thằn lằn,
thấy chúng chuột như vậy, thương cảm vô cùng.
5.
Bỗng nhiên, nó thấy lũ chuột tìm chỗ an toàn
mà khai đại hội. Nó bèn vận thần thông nhĩ, mà
nghe lũ chuột nói với nhau những gì. Nó nghe
một con chuột cống khởi nói như thế này:
- Hỡi đồng loại chúng chuột! Đời của chúng ta
khổ não lắm rồi. Ngày ở hang để tránh người đập
giết, tối mới dám ló ra mà ăn vụng. Thế mà chồng
lên cái khổ ấy, chúng chuột ta còn gặp cái đại
họa, là lão mèo. Vì lẽ đó mà tôi triệu tập tất cả
lại, để bàn tính coi có cách nào để thoát cái đại
họa ấy chăng?
Một con chuột con, còn hăng tiết, hùng biện
nói:
- Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết! Chúng ta
phải hiệp bầy lại, một lượt tiến tới, mà cắn mèo.
Một mình mèo làm sao cự lại cả bầy chuột?
Một chuột già, mình đầy thẹo, kêu chít chít
nói:
- Đừng có dại! Đừng có dại! Thuở tôi còn trẻ,
tôi có nghe theo luận điệu ấy. Chúng tôi có tổ
chức một bộ đội chuột, đến mấy trăm con, xông
tới mà toan cắn mèo. Thế mà mèo chỉ quơ tay
một cái, là ngủm một chuột. Mấy trăm chuột của
bộ đội chết sạch. May mà tôi rán được, đầy mình
thương tích, thoát chết chạy về, cả tháng mới lành.
Kinh nghiệm của chuột già này, xin các thanh
niên chuột nên gẫm cho kỹ. Chớ liều lĩnh mà
thiệt mạng, lại không có chút kết quả nào!
Lời của chuột già như gáo nước lạnh dập tắt
lửa hăng của chuột con. Các chuột im lặng khá
lâu thì có một con nhỏ nhẹ nói:
- Chuột mà tranh đấu với mèo, thật là không
nổi. Ta tránh nó thì hơn.
- Đúng vậy!
- Phải lắm!
- Hay lấm!
Chuột kia nói tiếp:
- Muốn tránh mèo, ta phải nghĩ cách nào báo
cho ta biết sự hiện diện của mèo. Để ta tránh
trước, khỏi sợ bị mèo chụp. Cách ấy, tôi nghĩ rằng
ta nên treo một cái lục lạc nơi cổ của lão mèo.
Lão đi đến đâu, lục lạc rung vang báo tin cho
chuột ta hay, mà lánh trước.
Hồn con thằn lằn nghe kế ấy, thuật lại cho
người nghe. Và phê bình:
- Quả là Đại Trí.
Nhưng hồn con thằn lằn nhìn mãi, thấy lũ chuột
im phăng phắc, chẳng có chuột nào động đậy,
chẳng chuột nào thốt một lời, mà cũng chẳng chịu
giải tán, cho chuột nào trở về hang nấy. Hồn con
thằn lằn hỏi người:
- Sao lũ chuột lại như vậy?
Ngươi đáp rằng: - Bởi lũ chuột hèn nhát. Tuy kế là hay, song
chẳng có chuột nào có cái Dũng, dám đeo lục lạc
mà mang vào cổ lão mèo, để tự cứu, mà cũng để
cứu đồng loại. Có Bi mà không có Trí, là vô bổ.
Có Bi và Trí mà thiếu Dũng, là vô hiệu. Bi, Trí,
Dũng là ba cái chơn vạc, thiếu một chơn ấy là
vạc nghiêng đổ đi. - Làm sao bây giờ?
- Ngươi muốn cứu chuột, ngươi phải làm chuột.
Ngươi phải đầu thai làm con chuột có Đại Bi mà
biết thương đồng loại, có Đại Trí mà biết đem lục
lạc mang cổ của lão mèo, có Đại Dũng mà dám
hy sinh, liều mình, chẳng sợ mèo ăn tươi nuốt
sống, mang lục lạc xông đến gần lão mèo.
Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại
ngộ lần nữa. Muốn cứu độ hạng nào, phải hòa
mình vào hạng ấy. Thích Ca đã từ chối ngôi báu,
vì Thích Ca muốn hòa mình vào chúng dân, để
cứu độ chúng dân. Hồn con thằn lằn muốn cứu
độ lũ chuột, thì hồn con thằn lằn phải hòa mình
vào lũ chuột, đầu thai làm con chuột, về muôn
vàn cạnh khía thảy đều không khác gì với giống
chuột. Chỉ khác có một chút xíu là trong tâm hồn
của con chuột này có Đại Bi, Đại Trí và Đại Dũng
mà thôi. Có được đại ngộ ấy, thằn lằn ta bèn đầu
thai làm chuột.
6.
Bởi là do con thằn lằn đầu thai, nên khi chuột
ta sanh ra, thì hình vóc còn mang máng giống con
thằn lằn. Mẹ nó lầm tưởng là rồng. Bèn đặt tên
cho nó là Long Thử.
Long Thử lớn lên, có vẻ trầm ngâm, đạo mạo.
Lời nó kêu chít chít nào, nghe cũng có ý nghĩa ưu
thời mẫn thế. Một hôm, nó gọi một bạn chuột lực
lưỡng theo nó. Té ra, nó đã gặp được một nơi góc
tàu ngựa, một cái lục lạc to bằng quả trứng, nên
về gọi bạn theo nó. Đến nơi, nó nằm ngửa ra, ôm
lục lạc vào lòng, và bảo bạn cắn đuôi nó mà kéo,
như là kéo xe vậy. Kéo nó tới đâu, thì tiếng lục
lạc kêu lên rổn rảng. Mà bạn nó, vì cắn đuôi nó
mà kéo, đi chỉ nghe theo lịnh nó chít chít điều
khiển, nên chẳng biết trước sẽ hướng vào đâu,
thành ra không sợ sệt chi. Long Thử ra lịnh cho
kéo đến lão mèo, tính đem lục lạc mà mang vào
cổ lão mèo, như trước kia, lúc nó còn là hồn con
thằn lằn, nó đã nghe nói vậy.
Nằm một góc, lừ đừ, lão mèo nghe vang tiếng
lục lạc. Bèn giương mắt nhìn, chẳng biết con gì,
đầu chẳng thấy mặt mũi chi, chỉ thấy một cái vòi
quơ qua quơ lại, để tìm phương hướng, lại có đến
tám chân, bốn chân để đi, bốn chân lại chổng lên
mà nghỉ, mà kêu rống chẳng ngơi. Lão mèo quá
sợ nhảy phóc lên nóc nhà, kêu "miao! miao!"
rất là kinh hãi.
Lũ chuột núp trong hang, nãy giờ thấy mèo
rình không dám ra. Bây giờ thấy mèo hoảng nhảy
đi bèn nà ra. Con nào đói thì mau mau đi tìm mà
ăn vụng. Một số đông lại bu quanh Long Thử,
lên tiếng chê bai:
- Việc này có gì là khó. Ai mà nằm ngửa ôm
lục lạc chẳng được? Vì lối ăn cắp trứng ấy, chuột
nào mà chẳng biết? Chỉ vì mèo dại, thấy hai con
chuột cắn đuôi nhau, lầm tưởng là con quái gì,
mà sanh sợ thôi!
Chẳng dè, nằm trên mái nhà, lão mèo nghe
và hiểu tiếng chuột. Lão nhìn xuống, thấy quả là
Long Thử ôm lục lạc, nằm ngửa cho một con chuột
khác cắn đuôi; và cái mà lão lúc nãy tưởng đâu
là cái vòi quơ qua quơ lại, thật sự, chỉ là cái đuôi chuột!
Lão vừa thẹn cho lão, vừa phục Long Thử đa mưu, vừa
phát ghét lũ chuột vô ân, đã buông lời chê bai kẻ mới cứu mình
khỏi nạn. Từ trê mái nhà, lão mèo phóng xuống, mỗi một tay
hay chơn, sè vuốt mà móc họng một chuột.
7.
Tất cả các chuột khác hoảng chạy tứ tán. Long Thử và
bạn nó cũng giựt mình hoảng hốt chạy theo, chun vào
hang mà trốn. Chừng tinh thần định tỉnh lại, lũ chuột bèn
lập tòa án chuột để mà xử Long Thử. Long Thử bị buộc tội
là Thử gian, làm chuột mà lãnh lịnh của mèo, hại loài chuột của mình.
Bằng cớ là bấy lâu nay, lão mèo mỗi lượt chỉ
móc họng được một chuột mà thôi; còn bây giờ,
mèo và Long Thử toa rập, để cho mèo giết một
lần bốn trự chuột. Nếu không phải nhờ Thử-gian
đồng lõa mà giúp, dễ gì mèo chụp một lượt đến
bốn chuột? Lời buộc tội quá hữu lý như vậy, đủ
bằng cớ thiết thực như vậy, dễ gì Long Thử đem
tâm tình của mình, một tâm tình vô hình, không
biết tựa vào đâu, để mà chứng minh, để nói rằng
mình chỉ có lòng cứu độ loài chuột, chớ chẳng có
dạ phụng sự cho mèo để hại chuột? Long Thử bị
kết án tử hình. Điều này nó dễ chấp nhận, nếu
nó phải đem cái chết của nó làm điều kiện, để
cứu độ loài chuột, mà nó quá thương yêu. Song
cái bản án của nó, "tội Thử gian," làm cho nó đau
khổ vô cùng; vì nó mang một cái oan vô tận, không
ai giải cho được.
Lòng oan của nó xung lên, thành một vùng trở
lực, tận đến cõi trời Đâu Suất. Ở cõi trần không
thấy chi cả. Còn ở trên kia, Trở Lực ngăn cho
Thần Tiên không lui tới được, làm cho lưu thông phải
nghẽn. Thần Tiên phải hội nhau lại, tính làm sao cho
việc đại bất công này được giải, thì vũ trụ mới tuần
hoàn theo trật tự.
Bàn cã i rất 1âu, Thần Tiên tìm ra được một biện
pháp, là bấy lâu nay, người ta đếm mười hai chi (tí,
sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất,
hợi), thì mỗi chữ này vốn là trừu tượng, không có
nghĩa gì; nhưng bắt đầu từ bây giờ, phải cho loài
người hiểu rằng chữ đứng đầu tất cả, là chữ tí, phải
dành để cho Long Thử tượng trưng.
Những đức tánh quý báu của nó, mà đặt ra làm
chủ tể cho luân lý, thì vũ trụ mới vận hành điều
hòa được.
8.
Từ ấy, hỏi đứa trẻ nào, nó cũng biết "tí là con
chuột." Nhưng từ ấy nhẫn nay, loạn lạc vẫn kéo
dài hoài; bởi loài người chưa giác ngộ, cứ lầm
tưởng chuột ấy là thứ "chuột tham, sân, si" kia.
Chừng nào, đứng đầu cho cuộc vận hành của vũ
trụ là con Long Thử, con chuột học được, và hành
được theo Bi, Trí, Dũng thì may ra, nguồn Thanh
Bình mới khai được./.
Hồ Hữu Tường
(Thế Kỷ 21 số 170 & 171, June & July 2003)
Sau đây là phần giới thiệu truyện ngắn "Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp" trên báo Quê Mẹ, số Giai phẩm Xuân Quý Hợi 1983:
... Thắp đuốc giữa ban ngày vẫn tìm ít thấy những truyện
ngắn như "Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp," tập trung đủ ba yếu tố:
hư cấu truyện nhuần nhị, tự nhiên như cuộc sống đồng lúc
đạt tính quốc tế; gói lọn tinh túy tư tưởng Đông phương (ở đây là
Phật giáo); và sự nhập cuộc nhân sinh như một khai mở
Nguồn tụ thân.
Hồ Hữu Tường là người uyên bác Tây học, một giai đoạn nào
đó vì thương người và thương nước, nên đã dấn thân theo con
đường Mác-xít khuynh Đệ Tứ. Nhưng ông đã sớm thấy ngõ cụt
của lối này, và trở về đào sâu vốn dân tộc và phong cách Đông
phương, nhận đấy làm cuộc sống thực cho đời mình. Cùng
với Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu ... ông thuộc lớp trí thức ưu
tú hiếm hoi, sớm giác ngộ trở về con Đường Việt. Suốt đời, Hồ
Hữu Tường, vào tù ra tội, chỉ vì cưu mang phục hồi và xiển
dương Văn Hóa Việt Nam, lộ rõ nhất ở Đại hội Văn hóa Toàn
quốc tại Hà Nội năm 1945. Sau này, ý nghĩ Văn hóa ấy tiến xa
tới Tư tưởng, tới Đạo - Con Đường.
Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp sáng tác năm 1953, đăng lần đầu
trên tuần báo Mới. Năm 1955 được một ban giám khảo quốc
tế chọn, xem như một trong 50 truyện ngắn hay nhất thế giới,
và đã được ấn hành chung với 50 truyện này bằng Pháp và Anh
văn. Sang năm 1966, dưới sức thôi thúc và phát triển kỳ vĩ của
một phong trào Văn học khai phóng mới tại miền Nam, Hồ
Hữu Tường viết lại đoạn kết. Bản truyện đăng hôm nay là bản
hoàn chỉnh 66, khác với bản chúng ta thường đọc. Đoạn kết
"Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp" năm 53, là kết luận một đời
người trí thức tỉnh thức, đã thấy rõ sự sa đọa của tư tưởng giới
Tây phương lúc về chiều, mà đứa con út là tư trào Mác-xít.
Lối thoát cuối cùng cho nhân loại không nằm ở cách mạng
bạo lực và khủng bố, mà nằm ở Nhân Văn do những Văn Tài và
Văn Tâm chuyển hóa thời cơ.
Đoạn kết viết lại năm 66, tiến xa thêm một bước, Nhân Văn
bước vào cuộc Thế hiện - hành động. Dường như chưa có nhà
văn Phật giáo nào ở Việt Nam nắm trọn được yếu tính của Triết
học Hành động Phật giáo như Hồ Hữu Tường, để có thể hư cấu
vào văn chương thành một truyện ngắn tuyệt tác như Con
Thằn Lằn Chọn Nghiệp. Hồ Hữu Tường đi thẳng với từ ngữ
và ý tưởng Phật giáo trong cấu trúc truyện, thế mà vẫn không
hơi hám thứ văn chương nhà chùa, như một số sáng tác
thường thấy. Nó như chuyện cổ, chuyện đời xưa, tuy rất nay, rất
thời sự, rất nhãn tiền. Đọc lên như thấy Việt Nam trước mắt.
Ta thương hay ghét lũ chuột kia, cũng như đang thương hay giận
những con người cùng giống. Và rồi thảm thương thay, kẻ có lòng
dạ - như con Thằn lằn hóa nghiệp - cứ rụng chết thảm thê
dưới lưỡi và dao của đồng loại!
Nếu tác dụng của một buổi thuyết pháp, hay một cuốn sách,
một bài viết khảo cứu uyên bác về Phật học, không chấn động
và thay đổi lòng người, thì, cùng những tư tưởng ấy, phơi phới
hơn, Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp đã chuyên chở đủ, và
xúc động tâm can con người hiện tại, xui họ phải lo ngay vấn
đề hiện tại. (Nguyễn Thái) (Tạp chí Thế Kỷ 21số 172 August 2003)

|