Để So Sánh Các Anh Hùng Trước Nguyễn Huệ với Nguyễn Huệ (Phạm Văn Sơn)
20-12-2013 | NHÂN VẬT
Để So Sánh Các Anh Hùng Trước Nguyễn Huệ với Nguyễn Huệ
PHẠM VĂN SƠN
Từ nhỏ đến lớn tôi đã bị một ám ảnh nặng nề do ham đọc
lịch sử và viết lịch sử. Và đọc lịch sử cũng như viết lịch
sử ai mà không say mê sự nghiệp của nhũng anh hùng hào
kiệt nước nhà tỉ dụ Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi...
nhất là Nguyễn Huệ? Nay một mùa xuân lại tới, đó là thêm một dịp
cho chúng ta tưởng niệm đến các vĩ nhân dân tộc.
Với Lý Thường Kiệt, tôi chịu ông tướng này về cái gan bởi ông
đã dám mang mười vạn quân vượt biên thùy Hoa Việt, dẫm nát đất
Tàu từ Khâm Châu, Liêm Châu tới Ung Châu tung hoành ngang
dọc luôn 60 ngày, sát hại tướng tá quân dân người Tống trên bảy chục
ngàn rồi rút về nhẹ nhàng, êm thắm khiến cái mộng mở bờ
cõi, lập biên cương của Tể tướng Vương An Thạch tan tành ra mây khói.
Hào hùng thay vị Đại tướng nhà Hậu Lý!
Toàn thể các giới đồng bào chúng ta thuở đó phải hoảng hốt về
sự táo bạo của triều đình nhà Lý nói chung, của Thường Kiệt nói
riêng bởi so sánh lực lượng của ta và Tàu bấy giờ, viên Đại
Tướng Việt Nam đã làm một việc gần như đem trứng chọi đá. Rồi
khi ngọn cờ ban sư phất phới bay ngoài thành Thăng Long kèm theo
tiếng quân reo ngựa hí rồn rập của đoàn quân viễn chinh người ta
mới hết hồi hộp, sau đó có câu ca dao:
"Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu đổ, ai dè xe nghiêng."
Hãy khoan thưa các bạn, một việc khác kỳ lạ hơn!
Ấy là việc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ba phen đẩy lui
quân Mông Cổ là một thứ quân Đế quốc hung tợn nhất, hiếu chiến
và cũng thiện chiến nhất thuở đó đã nuốt trôi nước Tàu, tràn
qua Đông Âu, Bắc Âu, Trung Á, làm chủ ba phần tư thế giới. Quả
vậy, con cháu Thành Cát Tư Hãn cho tới bấy giờ không hề biết có
chiến bại. Và vào thế kỷ thứ 5 (sau C.N.), Attila tướng Mông Cổ đã
có phen viếng Âu Châu, gây những cuộc tàn sát khủng khiếp như chưa
từng thấy để có thể nói rằng "Nơi nào quân đội Mông Cổ đã qua, nơi
đó cỏ cũng không mọc nổi".
Năm Đinh Ty (1257), tướng Ngột Lương Hợp Thai mang quân
sang đòi vua Thái Tôn nhà Trần xưng thần nạp cống. Vua Thái Tôn
không chịu rồi quân Mông Cổ từ Vân Nam ầm ầm kéo xuống Thăng
Long như nước vỡ bờ.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thống suất ba quân đã dùng kế
đoản binh chống tràn trận, khuyên tướng sĩ đừng thấy giặc mạnh như
gió như lửa mà hoảng sợ, lại áp dụng chước vườn không nhà trống
cùng yếu tố khí hậu độc địa của nước nhà để tiêu diệt đối phương. Vị
Đại tướng này đã có một đức tính bình tĩnh hết sức và kiên nhẫn hơn
người, biết mình biết địch, biết sử dụng triệt để những ưu thế sẵn có.
Trong ba phen chống Nguyên, ông đã thi hành hai chiến pháp:
a) Mượn trời giết giặc.
b) Lấy sức người giết giặc.
Về điểm trên ông đã đọc nhiều sách của Tàu, hiểu rõ
những chỗ yếu của giặc khi bàn, chép về các cuộc chiến tranh với
Việt Nam. Nếu chúng tôi không lầm, ông đã được coi cả đoạn Mã
Viện đời Hán tức Phục Ba tướng quân, khi mang quân sang đất Việt
đánh dẹp Hai Bà Trưng luôn ngót 3 năm ròng phải mệt lòng rối trí
về vấn đề khí hậu ở đây gây cho binh sĩ của y nhiều cái chết rất vô
lý, bởi chết ít vì chiến đấu mà chết nhiều vì bệnh hoạn. Viết thư cho
người em là Sa Du, y than đã chót theo đuổi cái ấn phong hầu,
chức quyền Đại Tướng nên chuốc vào thân bao nhiêu sự vất vả nhọc
nhằn, thà trung ẩn mà hơn (làm quan nhỏ).
Sự phùng đắc ý nghi hưu tức
Phú quý tràng trung dị bạch đầu (1).
Nghĩa là con người vì ham phú quý, bôn tẩu nhiều thì dễ trắng
tóc hơn ai. Y nhắc rằng, trên đất Giao Chỉ có cái nóng hun mây cháy
đá, chim đang bay trên trời bị khí độc phải sa xuống thì con người
đâu có mình đồng da sắt để chịu đựng được nổi nóng lạnh ghê gớm của xứ này.
Biết nhược điểm của giặc, Hưng Đạo Vương không ham đánh,
lấy nhu chế cương, đánh lâu đánh dài (trì cửu chiến), quan niệm một
trận thắng chưa thể kết liễu chiến tranh. Rồi quân Mông Cổ muốn
đánh không được đánh và ta có đánh thì phải có ăn chắc mới đánh,
tránh giặc nhiều hơn đánh giặc, đồng thời mượn thời tiết oi ả làm
giặc mệt nhọc, ốm đau sinh ra chán nản. Nhưng lúc giặc bị thua liên
tiếp, bị ốm đau, bị mệt nhọc chán chường, Đại tướng họ Trần mới
dốc toàn lực để tiêu diệt. Luôn ba giai đoạn của cuộc chiến tranh tự
vệ từ năm 1257 đến năm 1288, chiến pháp này được áp dụng trong
những cơ hội thích nghi nhất nên giặc Nguyên đã bị trời giết và quân
ta giết khiến sau này Nguyên và ta đã giải binh, Đại tướng Thái tử Thoát Hoan
và lũ tàn quân chạy về Bắc Kinh vẫn rùng mình sởn gáy như còn
đang nằm trong một cơn ác mộng.
Có ai ngờ được một nước Nam nhỏ bé người hiếm của kiệm có thể
đẩy lui được một lực lượng đế quốc lớn nhất thế giới, đông đảo cũng
nhất thế giới chăng?
Và nếu đế quốc Mông Cổ thôn tính được Việt Nam, một tiền
đồn chống xâm lăng ở Đông Nam Á, liệu Miên, Lào, Tiêm La, Nam
Dương quần đảo bấy giờ có thoát khỏi nanh vuốt của con cháu Thành
Cát Tư Hãn?
Một chuyện lạ nữa và có thể nói là hết sức phi thường trong lịch
sử của ta và đối với lịch sử của các dân tộc: cuộc kháng Minh của Bình
Định Vương Lê Lợi vào thượng bán thế kỷ XV.
Trên quan điểm sử học của chúng tôi mà công tác phân tích, phối
kiểm, đánh giá là cần thiết, chúng tôi cho rằng cuộc thắng trận vĩ đại
của quân dân đời Trần tuy vậy còn có nhiều chất thông thường. Đến
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, thì ta khó mà tính ra những yếu tố chiến
thắng. Nó vượt sức tưởng tượng của chúng ta quá xa. Nó là một con
toán được trông rõ các dữ kiện nhưng ta thấy hầu như bất lực trong
việc kiếm lời giải đáp.
Này nhé, đời Trần chống nhau với Mông Cổ là lúc nước Việt Nam, ta
đang lành mạnh: giới lãnh đạo và nhân dân hòa vui như cá với nước,
các tầng lớp xã hội có cơm no áo ấm, guồng máy chính quyền ổn
định, các tổ chức quân sự của quốc gia được chỉnh bị, lại còn được
tăng cường bằng các tổ chức phụ lực của các vương hầu. Tóm lại,
ta có một nước Việt hùng cường.
Nhưng vào 1418, nước Việt Nam không còn độc lập nữa. Bốn trăm bảy mươi hai nha môn hành
chánh, quân sự của nhà Minh đã trấn đóng từ trên rừng rậm xuống
đến biển khơi, bọn quan lại tôi tớ của Trương Phụ, Hoàng Phúc đã
nắm vững các quận, các lộ ở đồng bằng từ Bắc Việt vào tới Thanh
Nghệ. Sách vở về chính trị, học thuật, kinh điển của ta bị tước đoạt
hết, các người trí thức của ta bị bộ hạ của Minh Thành tổ mua chuộc và
trưng dụng đưa hết về Kim Lăng để rèn dũa thành những công cụ
sắc bén cho bộ máy thuộc địa. Còn người dân thì xác như vờ, sợ như
nhộng, mất hết cả tinh thần, vật vờ hết thảy như đám ma trơi do sự khủng bố,
bóc lột hết sức dã man cửa nhà Minh. Sau này, kể đến nỗi thống khổ
của nhân dân, bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi còn nhắc rất
kỹ càng khiến ta nghĩ đến không khỏi giật mình ghê sợ.
Về bóc lột qua chế độ thuế khóa:
Dân đen sống muôn vàn cơ khổ,
Đứa trẻ con còn đỏ không yếu! (2)
Oán hờn hơn một chục niên
Còn đâu nhân nghĩa đảo điên đất trời!
Tiền thuế má vét thôi đã hết,
Lại bắt nào tìm vết hươu đen,
Lại nào thả lưới dò chim;
Lại nào xuống biển mà tìm ngọc châu!
Trên rừng rậm không đâu còn mỏ,
Loài côn trùng cũng khổ theo lây,
Điêu tàn muôn thức cỏ cây.
Điêu liên quan quả (3) thảm thay bao người!...
Về nạn nô dịch trong các công tác xây đồn đắp ải; dinh thự v.v...
"Loài quỷ sống uống tươi máu mỡ,
Bấy nhiêu ngày mà chửa đã no.
Xây nhà đắp lũy đủ trò,
Chân tay nào phục dịch cho vừa lòng?
Phu vùa mới bắt xong lại bắt,
Lệ luật nào khe khắc gớm ghê!
Bắt đi mà chẳng có về,
Bốn phương vắng lặng hết nghề cửi canh"...
Dân tình cực khổ đến thế là cùng, nạn diệt chủng coi như sát nách
nên mặc dầu nền thống trị cửa bọn xâm lược đã vững mạnh như Vạn
lý trường thành, người anh hùng đất Lam Sơn (Thanh Hóa) không
thể lặng thinh, phải vung cờ khởi nghĩa cứu nhà, cứu nước. Nhưng
cứu nhà cứu nước bằng gì? Lê Lợi lúc này chỉ có một tấm lòng hăng
hái và hai bàn tay trắng. Ngài đã than:
"Chính những lúc giặc trời đang mạnh
Thời nghĩa kỳ vút cánh bay cao
Phất bay theo tiếng gió gào,
Khơi bao uất hận, gợi bao khích lòng.
Duy ngặt một điều trong buổi mới,
Mấy băn khoăn là nỗi riêng ta!
Sớm mai mong lúc chiều tà!
Mà nhân tài chỉ như là lá thu!
Tuấn kiệt rõ như sao buổi sớm,
Chẳng ai cùng trên chốn ngược xuôi,
Ở nơi duy ác hiếm người,
Chẳng ai cùng góp đôi lời bàn suy.
Đòi phen mảnh nhung y vùng vẫy,
Chỉ nóng lòng về lấy Đông Đô!
Nhưng qua mấy thuở đợi chờ.
Cỗ xe hư tả vẫn chưa ai ngồi! (4)
Mà trông người thì người vẫn vắng,
Vẫn mịt mờ vẫn chẳng thấy ai,
Vẫn như trông vọng ra khơi,
Ngoài khơi chỉ thấy nước trời mênh mông!
Thế là ta tự lòng lo cả,
Lại càng thêm vội vã như khi,
Trông giờ chững nịch hiểm nguy
Cứu người mà có thể trì chậm ư!"
Ở cảnh ngộ đồng chí vắng người, nhân tài ít ỏi, quân nhu, lương
thực hiếm hoi, người anh hùng dân tộc của chúng ta vẫn không nản
lòng chiến đấu. Rồi từ 1418 đến 1420, ngài đem quân về
đóng ở Lỗi Giang (tức Mã Giang thuộc huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh
Hóa) lực lượng ứng nghĩa mới bắt đầu khởi sắc được ít nhiều thì
Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn tìm đến. Đáng lưu ý: trong kháng
chiến thuở đó chỉ có hai ông này là thành phần trí thức và quý tộc
mà thôi, còn lại bao nhiêu đều là nông dân cả.
Giai đoạn này trở đi Nghĩa quân có người giỏi thêm sức đánh đâu
được đó nhưng vẫn còn trải nhiều bước điêu linh bởi giặc quá đông,
có sẵn tổ chức, được huấn luyện đầy đủ lại có những tướng lãnh nhà
nghề chỉ huy. Lê Lợi và các cộng sự viên nhiều phen vào sinh ra tử
và có cả khi phải hòa với giặc tạm thời để bổ sung thực lực.
Qua năm 1424 là năm Giáp Thìn, kháng chiến uy hiếp được giặc ở
mọi chiến trường, chiếm Nghệ An, Tây Đô, Tân Bình, Thuận Hóa rồi
tiến ra Đông Đô. Năm 1427, hạ sát rất nhiều binh hùng tướng mạnh
của địch, khiến giặc trong nước tan rã mà viện quân của chúng chưa
vào sâu nội địa đã phải chạy dài (5). Bọn Vương Thông, Mộc Thạnh.
Hoàng Phúc là những tướng chủ chốt am hiểu rất rộng vấn đề Việt
Nam sau nhiều cố gắng vô hiệu phải xin hàng. Nước Việt kể từ 1428 lại trở về với người Việt.
Xét sự nghiệp của Lê Lợi thì thật là nước lã gột nên hồ; tay không
bắt gió: nếu không phải là bậc siêu nhân biết tin vào sức mình và
sức dân tộc của vua Thái Tổ nhà Hậu Lê và các đồng chí đã làm một
cuộc phiêu lưu táo bạo vô cùng và dễ thất bại như chơi.
Nay nếu ta so sánh sự nghiệp của Ngài có lẽ ta phải dành cho Ngài
cùng các đồng chí của Ngài tất cả lòng bái phục của chúng ta. Chúng
tôi còn muốn nói thêm rằng trong giai đoạn chống quân xâm lăng
đời Trần, nước ta về văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội đang thịnh
đạt, nhân tài dồi dào, tinh thần dân tộc chưa sứt mẻ, nguyên lực quốc
gia đang sung túc. Cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam bấy giờ
muốn sao còn bớt gay go, còn nắm vững được phần nào tin tưởng của
nhân dân, miễn biết sử dụng chiến lược, chiến thuật và các yếu tố
thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Nhưng Lê Lợi chống thực dân Minh là lúc Việt Nam toàn bộ lọt
vào tay giặc Bắc.
Giặc ở ngay trong nhà, giặc bố trí hết mọi địa thế hiểm yếu, đặt
được mọi cơ quan thống trị, kiểm soát. Nguy hiểm hơn nữa giặc lại
nắm luôn ở các thành phần trí thức trong nước, còn lại bóng "dân
ngu khu đen" (theo ý chúng) thì giở được trò gì? Thế mà nước nhà
đã kịp thời hun đúc ngay một số anh hùng hào kiệt đứng đầu là Lê
Lợi, nhà phú nông đất Lam Sơn. Chỉ cần một vĩ nhân có tài ra lãnh
đạo cuộc kháng chiến là đủ đảo lộn được chánh tình thuở đó. Nhưng
thưa các bạn, nếu các bạn đọc kỹ bài Đại Cáo Bình Ngô mới thương
cho con người ưu quốc đã ra gánh vác việc xứ sở quê hương giữa
lúc tổ quốc hết cả vốn liếng vật chất, tinh thần kiệt quệ đủ mọi mặt.
Có nên nói rằng Lê Thái Tổ đã làm một việc gần như đội đá vá trời,
đem sức mỏng manh của một con người lật nhào ngọn Thái Sơn?
Chúng tôi ngừng bút ở nơi đây để xin hỏi các bạn sao đất nước này lại
có những con người lịch sử, những sự kiện lịch sử kỳ dị như vậy?
Vì địa linh sinh nhân kiệt hay vì cái dư phúc của ông bà để lại?
Chưa hết! Về cận đại lịch sử nước nhà còn được sáng ngời thêm
vì sự xuất hiện của một vĩ nhân nữa đặc sắc không kém và cũng lạ
lùng hết sức suýt xóa nhòa cả bản đồ Á Châu bằng võ công và đưa đồng bào Hồng Lạc đến chỗ vinh
quang không tiền khoáng hậu. Đó là Quang Trung Nguyễn Huệ,
con người không những có tài thao lược không thua những tướng
lừng danh cổ kim lại còn có cái óc trùm trời mới là điều đáng lạ đối
với một nhược tiểu dân tộc.
Xuất xứ, thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Huệ?
Cho tới thế kỷ XVIII, công thương nghiệp ở nước ta vẫn không
được phát triển theo khả năng và ý muốn của dân chúng do sự hạn
chế của triều đình về việc giao dịch với các nước ngoài. Hoạt động
căn bản trước sau của quốc gia vẫn là nông nghiệp. Như vậy để nói
rằng đánh đuổi xâm lăng là nhân dân đồng ruộng thì chống chế độ
vua quan tham tàn, ích kỷ dĩ nhiên cũng là nông dân.
Phong trào khởi nghĩa của nhà Tây Sơn được đeo nhãn hiệu nông dân và được
nhấn mạnh ở điểm này chỉ là thừa mà thôi. Nước Việt Nam là một
nước sống về nông nghiệp, thuở đó trên 90% dân chúng là nông dân
thì việc gì xảy ra lại không do nông dân? Tuy nhiên bề ngoài anh
em nhà Tây Sơn thuộc tầng lớp tiểu tư sản và phong kiến hạng dưới
nếu xét Nguyễn Nhạc làm Biện lại ở Vân Đồn và Huệ, Lữ chuyên
bán trầu cau, trao đổi sản vật với dân Thượng (Bình Định), nhưng
xét nguồn gốc thì các ông này thuộc dòng dõi nông dân bởi tổ tiên
ở Nghệ An đã bị quân chúa Nguyễn buộc phải di cư vào Nam Hà
với nhiều tù binh sau một trận phản công qua sông Gianh năm 1655.
Ông tổ là Hồ Phi Khanh được đưa đến ấp Tây Sơn (Bình Định) để
khai khẩn ruộng đất.
Thuở bé anh em Tây Sơn theo học Giáo Hiến ít lâu về văn cũng
như võ và thường được thầy khích lệ dấy nghĩa bởi thầy cũng mang
nặng nhiều bất bình đối với thời cuộc.
Bấy giờ chế độ Nam Hà rất mục nát. Nơi nào cũng có tham quan
lại nhũng. Giữa lúc dân chúng bị đói rách cơ cầu thì phụ chánh đại
thần là ngoại tả Trương Phúc Loan trải vàng ra phơi đầy sân trong
một vụ lụt. Loan là ông cậu chúa Định Vương (12 tuổi) kết bè đảng
chỉ lo bóc lột dân chúng, gây sự kiệt quệ thống khổ khắp mọi nơi, nhờ
vậy anh em Nhạc, Huệ vừa phất cờ khởi nghĩa, toàn thể dân chúng
địa phương đều hưởng ứng ào ạt như gió bão. Người lãnh đạo phong
trào này dĩ nhiên cũng thuộc đám nạn nhân của chính quyền đời
bấy giờ chớ không phải chỉ do thông cảm với cảnh ngộ bi thảm của
đồng bào mà thôi. Nói tóm lại, đám người này có thể nói là những
kẻ tiến bộ. Họ không còn chấp thuận chế độ Trương Phúc Loan, vì
chế độ này đã phản động đối với quyền lợi của đại chúng tới mức
đại chúng không còn cam chịu thêm nữa.
Đã hai trăm năm kể từ Trinh Nguyễn phân tranh, chế độ phong
kiến của Lê, Trịnh, Nguyễn mỗi ngày thêm hủ bại, lỗi thời như cái
nhà đã quá hư nát.
Rồi những người anh hùng của phong trào Tây Sơn đã vươn tay
giật đổ cái nhà đó, thỏa mãn được yêu cầu hàng thế kỷ của dân tộc
mau lẹ như chớp nhoáng; dũng mạnh như làn sóng của đại dương.
Nó biểu hiện cho quần chúng thấy rằng, thành trì của phong kiến
bền vững hay mong manh là ở nơi dân, dân là sức mạnh duy nhất
của một chế độ, thuận với dân thì còn, nghịch với dân thì mất. Với
chính quyền nào lực lượng của nhân dân vẫn là trên hết.
Cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn bắt đầu từ năm Tân Mão (1771)
đến năm Quý Mão (1783) đã quét sạch được con cháu Chúa Nguyễn
ra khỏi nội địa miền Nam.
Họ Trịnh ở miền Bắc cũng bị Tây Sơn dứt vào năm Bính
Ngọ (l786). Thế là cả hai nhà Trịnh Nguyễn có thâm căn cố đế dài
trên hai thế kỷ chỉ trong khoảnh khắc đã bại vong trước lực lượng
nhân dân do anh em Nhạc, Huệ lãnh đạo.
Năm Giáp Thìn (l784), hai vạn quân Tiêm La và 300 chiến
thuyền lấy danh nghĩa sang giúp chúa Nguyễn do hai Đại tướng Chiêu
Tăng, Chiêu Sương chỉ huy đã bị Nguyễn Huệ nhử đến Rạch Gầm và
Xoài Mút (phía trên Mỹ Tho) phá tan gần hết chỉ trong một trận.
Nhưng việc đánh đuổi quân ngoại xâm Tiêm La này đâu vĩ đại,
nhiều hào hứng bằng cuộc diệt 20 vạn quân Thanh vào năm Kỷ Dậu
(1798)! Đám quân Tàu này sang nước ta với lý do khôi phục
nhà Lê nhưng bên trong vua Càn Long và lũ bề tôi tính lợi dụng
nước ta đang rối loạn mà đánh cướp, lập thành quận huyện như ngàn năm trước.
Đại tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị lãnh đạo ba quân trích ở
bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quí Châu rồi đem
vua tôi Lê Chiêu Thống về nước làm chiêu bài cho cuộc xâm lược.
Chúng mới sang chiếm đóng thành Thăng Long và các miền phụ cận
có ít ngày đã bóc lột quấy nhiễu nhân dân tàn hại không sao kể xiết.
Vua Quang Trung được tin về biến cố này liền thống lĩnh thủy bộ
đại binh ra Bắc. Ngày 30 tháng Chạp, Ngài đã có mặt ở Sơn Nam và
sang mồng 5 tháng Giêng (Kỷ Dậu), quân ta chớp nhoáng tấn công
vào Thăng Long khiến binh đội của nhà Thanh không kịp trở tay phải
tháo chạy qua Nhĩ Hà làm đổ cả cầu, sa cả xuống sông chết đuối vô
kể. Riêng Tôn Sĩ Nghị quẳng hết ấn tín cùng một ít tả hữu trốn thoát.
Chiến công của Nguyễn Huệ đã diễn ra vô cùng huy hoàng vào
đầu mùa Xuân năm Kỷ Dậu và người Việt Nam nào ham đọc lịch sử
mỗi khi Xuân sang mà không tưởng niệm đến người anh hùng và sự
nghiệp diệt ngoại xâm vĩ đại của Ngài một cách vô cùng thích thú.
Vua Quang Trung là một nhân vật lịch sử có nhiều điểm khiến
ta phải chú ý nếu chúng ta nghiên cứu rộng rãi sự nghiệp của ngài:
1) Diệt xâm lăng: Ngài đánh bại hai quân Tàu, Xiêm dễ dàng như xua gà.
2) Đuổi chúa Nguyễn: Ngài đẩy quân Nam Hà ra khỏi xứ Đồng
Nai lẹ làng như trở bàn tay.
3) Hạ ba dòng họ Lê, Trịnh, Nguyễn: Những dòng họ này có uy
thế trên ba thế kỷ ở nước nhà. Vậy mà ngọn cờ đào của Tây Sơn
bay tới đâu các chính quyền Trịnh Nguyễn sụp đổ đến đó, sức chống
đối gần như không đáng kể. Tính ra từ 1771 đến 1802, triều đại
Tây Sơn cáo chung, vua Quang Trung chưa hề biết có chiến bại. Quả
không một danh tướng cổ kim nào được hiển hách như vậy.
Ba điểm trên đây chỉ mới nói lên cái tài đánh Đông dẹp Bắc của
người anh hùng đất Tây Sơn, qua các thành quả vô cùng rực rỡ, nhưng
các nhà quân sự ngày nay không nhìn vào các thành quả ấy để khen
ngợi vua Quang Trung thôi mà còn nhìn kỹ các chiến pháp của ngài
để thán phục rất nhiều.
Chiến pháp của vua Quang Trung thế nào? Xin thưa đó là lối tốc
chiến để tốc thắng, nhưng trong cái tốc chiến ấy có 3 yếu tố hết sức
cần thiết không thể bỏ qua được:
- Tin tức về địch lấy cho thật đúng thật mau (tinh thần của địch,
lực lượng của địch, vị trí của địch).
- Nắm vững tinh thần của quân đội bản bộ tức là sự quyết tâm từ
trên xuống dưới muôn người như một cương quyết diệt thù cứu quốc.
- Hành quân vào lúc bất ngờ của địch và đánh rất mạnh rất nhanh
cho địch không kịp đối phó.
Nếu chúng tôi không nhầm thì cũng vào hạ bán thế kỷ XVIII,
người đồng thời của Nguyễn Huệ là Nã Phá Luân hoàng đế cũng
từng dùng chiến pháp trên đây nên đã nhiều phen thắng lớn trên khắp
chiến trường Âu châu.
Lại có điều đặc biệt thêm nữa là Nguyễn Huệ không phải là người
được học nhiều về văn cũng như võ, bởi ông thầy học của Ngài là
Giáo Hiến không hề có tiếng tăm lớn về hai môn kể trên, như vậy, ta
phải liệt kê người áo vải cờ đào đó vào loại "sinh nhi tri" tức là bậc
thánh nhân vậy. Nói rộng ra, đất nước Việt Nam qua lịch sử thường
cho ta thấy những vĩ nhân của chúng ta hay có những xuất xứ rất
bất ngờ, rất khiêm nhượng mà làm nên những huân nghiệp vô cùng
lớn lao dầu so sánh cả với danh nhân nước người. Tỉ dụ Lý Thường
Kiệt xuất thân là một hoạn quan, dòng họ nhà Trần làm nghề chài
lưới, Lê Lợi là một phú nông, anh em Nguyễn Huệ cũng không thuộc
thành phần quý tộc nào.
Nhân đây chúng tôi muốn nói với các bạn đọc nhất là anh em
thanh niên đang có mặt trong giai đoạn Tổ quốc bị cái cảnh tam phân
ngũ liệt, nước loạn dân tàn này rằng đừng nên có tự ti mặc cảm:
có ai cấm chúng ta làm anh hùng đâu và nếu ta quyết tâm cứu nhà
cứu nước để làm một Trần Quốc Tuấn, một Nguyễn Huệ, đài vinh quang
và danh dự lúc nào cũng rộng mở trước mắt ta. Xét mình xét người đi,
làm trai chỉ có thời loạn là cơ hội để dựng sự nghiệp mà thôi!
Bài hịch của Hưng Đạo vương có ghi lời ngài kêu ba quân mỗi
người phải làm một Bàng Mông, Hậu Nghệ thì quả sau này mười vạn
quân Việt đã thành Bàng Mông, Hậu Nghệ hết rồi, nhờ đó đã đánh
tan 500 ngàn chiến sĩ kiêu hùng bách chiến bách thắng của Mông
Cổ mỗi lần chúng ló đầu sang Việt Nam.
Về chính trị, vua Quang Trung cũng có những cái nhìn sâu sắc
vào thực tại và thực tại cho đến bây giờ đang kể là bi đát vì người
bình dân của chúng ta hầu hết phải sống bằng ruộng đất mà đa số
lại không có ruộng đất. Nguyên nhân: các quan liêu, cường hào phú
nông dưới đời Lê Mạt đã bằng uy quyền, bằng nghề cho vay lãi, bằng
sự thay đen đổi trắng ở các sổ bộ lợi dụng tình thế rối ren vì chiến
tranh từ hai thế kỷ đã chiếm đoạt nhiều ruộng đất công tư ở khắp
nơi. Người dân cày thuần túy và vô sản phải lĩnh canh rồi nộp tô tức
quá nặng nề. Ngay khi ngọn cờ đào phất lên, đường lối của Tây Sơn
đã là thâu lại ruộng đất nơi nào đoàn quân "cứu tinh" kéo tới.
Khi hai tập đoàn Trịnh-Nguyễn bị tiêu diệt, chính quyền vào tay người
anh hùng đất Qui Nhơn thì một chánh sách được áp dụng ngay là
trả ruộng cho dân cày và chiêu hồi những đồng bào lưu vong về cố
lý gia tăng sản xuất. Chính sách này đã tạo nên điều kiện phát triển
của giới tiểu nông là giới đông đảo nhất và cũng có ảnh hưởng tốt
cho công-thương nghiệp. Luôn dịp này, Ngài còn cho mở rộng các thương
cảng để việc mua bán được tự do với các người ngoại dương tức là
khôi phục nền kinh tế hàng hóa bấy lâu bị vua quan hạn chế triệt để.
Trong việc ngoại giao với các nước láng giềng, ngài chú trọng
đến hòa hảo nhưng giữ vững quốc thể, nâng cao địa vị dân tộc, nhất
là với Trung Quốc.
Nổi bật nhất là sự dùng chữ Nôm một cách tích cực từ triều đình
ra ngoài dân dã. Với ngài, chữ Nôm mới là văn tự chính thức của
chúng ta và còn ngụ ý rằng học nhờ viết mướn là thiếu tinh thần độc
lập. Đến việc tôn giáo Ngài cũng có những nhận xét rộng rãi, tinh tế
là không có kỳ thị đối với một tín ngưỡng nào nhưng không dung tha
bọn trốn việc quan đi ở chùa. Ngay từ cuối đời Lý, theo nho thần
Đàm Dĩ Mông, đã có hiện tượng kỳ quái này nên họ Đàm phải tâu
lên vua: "Tăng đồ nhiều hơn dịch phu toàn quốc...". Để trừ khử tệ
đoan này, nhà vua buộc làm chùa lớn ở các phủ, huyện để bớt chùa
nhỏ và các tăng ni phải chịu sự khảo duyệt về giáo lý, hạnh kiểm
mới được có mặt nơi cửa thiền. Xét ra vua Quang Trung chẳng được
nổi tiếng là tay văn tự trứ danh như nhiều ông vua của các tiền triều
mà ngài tỏ ra lỗi lạc tiến bộ hết sức về văn hóa, chính trị, ngoại giao,
kinh tế v.v... không mấy người bì kịp. Tuy nhiên nhiều ý tốt của Ngài
chưa đạt được tới mức mong muốn vì thời cuộc đa đoan phức tạp
quá nhiều ngài chưa thể nhất thời thẳng tay thanh toán một số khá
đông phần tử thối nát còn lén lút trong chánh quyền ngài nên sự tiến
bộ của triều đại bị hạn chế một phần nào.
Nhưng vua Quang Trung còn có một chủ trương mà chưa một
triều đại nào trước đây dám nghĩ tới: Đó là việc mang binh đội Việt
Nam vào đất Tàu. Lý Thường Kiệt xưa kia mang 10 vạn quân xâm
nhập nội địa Trung Quốc chỉ là đánh một đòn gió (hay đòn tâm lý)
vào triều Tống mà thôi. Vua Quang Trung đi xa hơn Lý Thường Kiệt:
Ngài cho sứ sang cầu hôn với công chúa nhà Thanh, xin lại hai tỉnh
Quảng Đông, Quảng Tây và súy-đồ của ngài đâu có phải chỉ to lớn
đến thế. Ngài đã nghĩ rằng các rợ Hung, rợ Hồ, Mông Cổ v.v... là các
phiên quốc của Trung Hoa trước kia từng vào làm chủ giống Hán
thì Ngài cũng muốn người Lạc Việt ta đem quân reo ngựa hí đến
đất Tàu. Qua một trận giao phong, từ Thường Tín đến Thăng
Long không quá mười tiếng đồng hồ cùng quân bốn tỉnh miền Hoa
Nam với bọn tướng tá nhà nghề của vua Càn Long, ngài đủ rõ sức
người sức mình nên đúng như lời đã tuyên bố trước ba quân rằng,
mười năm sau quân đội rèn luyện xong nước phú cường Ngài sẽ hỏi
tội bọn Tàu. Chuyến đi sứ lần cuối cùng để mở cuộc khiêu
khích vua Càn Long, Ngài không dùng văn thần mà cử Vũ Văn Dũng
là một Đại tướng cốt nghiên cứu địa hình, địa vật, phong tục, chế độ
của Thanh triều, nhiên hậu sẽ hưng binh. Sự kiện này đã được sử sách
ghi chép rõ rệt. Tiếc thay việc mới diễn hành đến nửa chừng thì nhà
vua bị bạo bệnh qua đời nên cái mộng người Việt qua Tàu lại tan ra
mây khói. (6).
Dầu sao trước súy đồ hết sức vĩ đại này, tuy chưa được thực hiện,
hậu sinh chúng ta cũng phải hoan nghênh cái óc trùm trời của Quang Trung
Nguyễn Huệ. Nhiều nho thần xưa kia đã từng tỏ ý khao khát thấy cờ của dân tộc
Việt Nam dựng trên đất Tàu, 170 năm gần đây đã có một vị anh hùng dám nuôi
mộng đó lại yểu vong, thật đáng hận vô cùng (7).
Với thế hệ chúng ta, nước Tàu phong kiến đã rút lui vào quá khứ, nước Tàu
cộng sản ra đời còn tai hại, nguy hiểm gấp mười, người trai nước Việt nào dám
nối chí Quang Trung Nguyễn Huệ đây?
Con cháu đã không hơn lại không bằng ông cha chẳng lấy thế làm nhục sao?
1. Câu này trích ở Đường thi, ý nói việc đời nếu đạt được ý mình một cách tương
đối thì nên cho là đủ, bo thiết với vinh hoa phú quý chóng bạc đầu. (Bài này vịnh hoa
Mẫu đơn cũng như bài vịnh Trúc để tượng trưng cho người quân tử.)
2. Giặc Minh có chính sách vô cùng tàn ác: chúng giết dân và con nít đem nướng
trên lửa đỏ, chúng chặt đầu moi ruột các người kháng chiến treo lên cành cây để diều
tha quạ mổ có mục đích làm cho nhân dân ta mất tinh thần đề kháng...
3. Quan: Người góa vợ, Quả: Kẻ góa chồng, Điên liên: Những người không nhà không cửa, cùng vô sở xuất.
4. Văn Vương mời Khương Tử Nha làm tướng ngồi chung một xe để tỏ sự thân
hiền đãi sĩ.
5. Trường họp bọn Liễu Thăng mới tới Lạng Sơn đã chết tướng tan quân.
6. Đề nghị cầu hôn và xin đất (hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây) của vua Quang
Trung được chấp thuận, duy về đất đai Thanh triều chấp thuận cho một nửa, nhưng sứ
đoàn đang nói chuyện ở Bắc Kinh thì có tin vua bị bạo bệnh chết nên việc tuy thành
lại bị bỏ luôn. Tuy nhiên nếu Quang Trung còn sống sự việc đâu có đến thế mà xong,
ngài muốn gây chiến thì chiến tranh phải bùng ra mới nghe. Có kẻ nói: "Ngài làm một cuộc
vô cùng phiêu lưu và mạo hiểm..." Chúng tôi xin trả lời: các dân Hung Nô, Mông
Cổ, rợ Nhung vào làm mưa nắng trên đất Hán nhiều phen, tại sao không có ta? Việc
đời kém suy xét nhiều khi đi đến thất bại, nhưng tính kỹ quá dễ thoái chí, đôi
phen cần mạo hiểm mới thành công như phương ngôn Tây từng nói: Qui ne risque rien
n'a rien (Không liều không được có liều có ăn).
(7) Vũ Văn Dũng khi còn có mặt ở trước sân điện của vua Càn Long được tin đệ
nhị sứ đoàn Việt Nam đến báo Quang Trung băng (có lẽ vì chứng đứt mạch máu)
quá đột ngột đã té xỉu và khi ông tỉnh dậy ông có bài thơ than tiếc người anh hùng
dân tộc như sau: