1. Head_

    Nguyễn Đình Toàn

    (6.9.1936 - 28.11.2023)

    Y Vân

    (.0.1933 - 28.11.1992)
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Từ Bãi Tắm Khỏa Thân Đến Chiêc Giường Của Chu Mạnh Trinh (Lưu Văn Vịnh) Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

      27-11-2025 | THỜI LUẬN

      Từ Bãi Tắm Khỏa Thân Đến Chiêc Giường Của Chu Mạnh Trinh

        LƯU VĂN VỊNH
      Share File.php Share File
          

       

      Bà cụ gần 80 tuổi vừa đón chúng tôi vào nhà vừa nói: Khi nào các cậu chán Mỹ, chán Sài Gòn, Hà Nội thì về đây, vùng chúng tôi có câu: muốn sống lâu về Khoái Châu mà ở...


      Khoái châu cách Hà Nội không xa, chỉ mười mấy hai mươi cây số, đi theo đường đê Gia Lâm nay đã trải nhựa khá tốt và vắng xe, hơn nửa tiếng đã tới. Mỗi lần về thăm mảnh đất văn minh sông Hồng này, tôi lại thấy huyết mạch rợn lên như địa chấn, lại ngửi thấy mùi đất mùi lá, mùi gió quyền quyện hương hồn cổ nhân... Sáng nay, một buổi sáng trong veo tháng mười, từ Thăng Long về Khoái Châu, ước ao bao năm về thăm bãi Tự Nhiên của Chử Đồng Tử, đầm Dạ Trạch của Triệu Việt Vương mãi hôm nay cơ duyên mới thành.


      Khoái châu, Hưng Yên nằm phía Đông Hà Thành, hướng ra biển chính là Phố Hiến thương cảng sầm uất năm xưa, thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến... Hưng Yên, quê bạn tôi, ăm ắp chiều dầy lịch sử, tôi theo về thăm, là thăm một góc Việt sử dấu kín trong hành trang phiêu bạt của một đứa con sông Hồng.


      Gia tộc bạn tôi hẳn đã sinh trưởng nơi đây, Phú Thị-Khoái châu nhiều đời, tôi chợt nhận ra trên những gương mặt nhăn nheo kia, những bà cụ răng đen ăn trầu... chính là truyền nhân Văn Lang Giao Chỉ còn lại, vững chắc như rễ cây trên mảnh đất Khoái Châu, chẳng có phong ba bão táp nào làm bật đi được... Những đứa em trai, như chúng tôi, những cánh chim Lạc có bay đi tứ xứ thì khi trời quang mây tạnh, lại bay về, tụ tập trên mảnh đất tổ, lại ríu rít quanh nương đồng, đôi mắt lấp láy cùng nắng vàng xuyên lũy tre xanh.


      Dọc sông Hồng tới tỉnh Hưng Yên, tôi chăm chú nhìn những khóm tre và ao đầm hai bên bờ. Đúng đây là nơi Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục thế kỷ thứ VI (548) có thể đóng quân giữa đồng lầy cỏ cao, cầm cự với quân nhà Lương, đây cũng là địa hình Ngô Quyền chọn làm căn cứ đóng quân luyện binh để đánh quân xâm lăng, loại gỗ quý rừng cây Kê Lạc, cứng và thẳng, chịu nước, đã được dùng làm cọc nhọn đóng xuống lòng sông Bạch Đằng phá tan quân Hoàng Tháo nhà Nam Hán (938) mở đầu thời đại tự chủ nước Việt. Cho nên, vùng Hưng Yên và Hải Phòng, quanh vòng cung sông nước Bạch Đằng Giang, đã dựng nhiều đền thờ Ngô Vương Quyền, riêng huyện Tiên Lữ có tới ba đền, đền Vương ở Kê Lạc theo truyền thuyết còn táng cả mộ tổ Ngô Quyền trước đền.


      Tới thế kỷ 17 Hưng Yên phồn thịnh nhờ mở cảng buôn bán với Tầu, Hòa Lan, Nhật Bản, Thái Lan. Đời Trịnh Tráng (1637), mọc lên 2000 nóc nhà sầm uất thứ nhất kinh kỳ thứ nhì Phố Hiến. Nếu tính theo địa dư, trung bình mỗi thế kỷ phù sa sông Hồng, sông Thái Bình bồi ra biển 12 km, thì cách đây 4 thế kỷ, hẳn Hưng Yên Phố Hiến rất gần biển, một cảng thuận tiện cho tầu bè lui tới, là đường sông vào Thăng Long, đến nỗi thế kỷ XIV, năm 1389, Chế Bồng Nga đã kéo cả 100 chiến thuyền theo đường sông uy hiếp Thăng Long, chính nơi đây, trên sông Luộc, Tiên Lữ, Trần Khát Chân đã bắn chết Chế Bồng Nga, trừ được họa Chiêm Thành cho Đại Việt.


      Bây giờ Phố Hiến đã tiêu điều, còn lại một ngôi chùa Tàu và một cây nhãn rất lớn, gọi là cây nhãn Tổ, hai dấu tích hiếm hoi thời huy hoàng thịnh vượng ba bốn trăm năm trước.



      *


      Bên kia sông Hồng, xa xa, bãi Tự Nhiên trong sương mờ, ẩn dấu một chuyện tình bất hủ, giữa nàng công chúa Tiên Dung, con vua Hùng Vương thứ III, và chàng Chử Đồng Tử, không có nổi chiếc khố. Nàng công chúa đẹp, dung nhan như Tiên nữ, gặp chàng trai niên thiếu-(đồng tử), ở bến sông (Chử nguyên nghĩa là bến)... Chắc hẳn nàng xuôi dòng sông Hồng từ Việt Trì ra biển hóng gió, nằm hớ hênh trên bãi cát, rồi tình cờ gần gũi cậu đồng tử bến sông đang cởi truồng mò cua bắt ốc đánh cá…Chàng và nàng đang tuổi dậy thì, theo lẽ tự nhiên, bản năng tuổi trẻ, “quan quan thư cưu, tại Hồng hà Khoái châu, yểu điệu công chúa, đồng tử hảo cầu...”


      Chử lấy tên làng Chử Xá, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên bây giờ, Đồng Tử chỉ người mang tâm hồn trong trắng hồn nhiên (như nhi đồng), đấy cũng là xích tử chi tâm của Mạnh Tử (tâm hồn trẻ sơ sinh), là tâm thanh khiết theo Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo “bienheureux ceux qui ont le coeur pur car ils verront Dieu“ (Mathieu) như học giả Nguyễn Đăng Thục đã giãi bày trong tập Tư Tưởng VN.


      Chuyện xảy ra từ đời Hùng Vương thứ III: cha con họ Chử (hay Sử) nhà bị cháy, hết sạch của cải chỉ còn một chiếc khố chia nhau mặc. Khi người cha, Chử Cù Vân chết, dặn con hãy chôn mình trần truồng, để chiếc khố độc nhất lại cho con mặc, nhưng người con thương cha không nỡ, nên chôn khố theo, còn mình chịu ở truồng, ngày thì trốn tránh dưới cát, dưới sông chờ thuyền buôn qua lại ăn xin hay câu cá ven sông mà sống.


      Tình cờ một hôm công chúa Tiên Dung con vua Hùng và đoàn thuyền tuần du đến bến Chử Xá, thấy phong cảnh tươi đẹp liền ghé bãi giăng màn cởi xiêm áo mà tắm, lúc dội nước cát trôi đi mới thấy Chử Đồng Tử nằm trốn trần truồng dưới lớp cát trong bãi lau sậy! Công chúa cho là kỳ duyên bèn cho họ Chử mặc quần áo rồi vời xuống thuyền yến tiệc. Sau đó hai người thành vợ chồng mặc dù vua Hùng không ưng thuận, vì thế công chúa Tiên Dung và Chử Đồng Tử chọn ở lại Chử Xá cùng nhau buôn bán làm ăn.


      Chẳng bao lâu, cả vùng ven biển sầm uất, cả ngàn năm trước Phố Hiến, khách buôn ngoại quốc qua lại coi Tiên Dung là chủ xóm làng. Một người lái buôn rủ Chử Đồng Tử đi ra bể xa buôn đồ quí, chỉ một năm tất lời bội phần. Chử Đồng Tử nghe lời mang chút của cải ra biển Đông đi buôn, đến núi Quỳnh Lãng (phải chăng vùng núi nhấp nhô Hạ Long?) neo thuyền, ghé lên am nhỏ gặp một nhà sư trẻ tên Phật Quang, sư thấy Đồng Tử tiên phong đạo cốt nên bảo Chử Đồng Tử ở lại học đạo. Hơn một năm sau, trước khi trở về đất liền, đạo sư trao cho Chử Đồng Tử một cây gậy và một cái nón có phép thần thông. Chử Đồng Tử đem đạo pháp về dậy Tiên Dung rồi cả hai vợ chồng bỏ việc buôn bán đi tu. Một hôm đi đã xa, trời tối mà không thấy dân cư, Chử Đồng Tử mới chống gậy và che cái nón để dừng chân tạm nghỉ. Canh ba đêm ấy, bỗng nhiên chỗ cắm gậy hiện ra thành quách lầu ngọc, đủ hàng văn võ thị nữ tiểu đồng như một tiểu quốc, dân chúng quanh vùng kinh ngạc tấp nập tới dâng cúng! Vua Hùng nghe tin, tưởng là con làm loạn bèn sai quân tướng tới đánh. Tiên Dung cười nói: “Việc này tự trời xui nên, không phải tại ta làm, sống chết đã có trời, ta đâu dám chống lại cha!” Khi quan quân tiến đến bờ sông, đóng trại ở châu Tự Nhiên (sau là Khoái Châu phủ), chưa kịp sang sông thì nửa đêm hôm ấy giông bão nổi lên, cả thánh quách điện đài người vật của vợ chồng Tiên Dung Đồng Tử bay mất lên trời, chỉ còn lại bãi đất không giữa đầm lầy mà thôi. Bãi ấy gọi là bãi Tự Nhiên và đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ (một đêm).



      Trong bốn vị Tứ Bất Tử, Chử Đồng Tử, Phù Đổng Thiên Vương, Tản Viên Sơn Thánh, Liễu Hạnh Thánh Mẫu, thì Chử Đồng Tử xuất hiện từ đời Hùng Vương thứ III, xưa nhất.


      Cũng chính tại bãi Tự Nhiên này, còn gọi là bãi Mạn Trù, vua Trần Nhân Tông và Trần Bình Trọng đã đánh quân Mông Cổ, và tới thời Minh thuộc thế kỷ XV, hẳn sự hiển linh của Chử Đồng Tử đã được chiêm nghiệm như một vị Thánh Bất Tử phò dân cứu nước nên Nguyễn Trãi cũng đã tới đền Đa Hòa này cầu mộng, bài văn cầu mộng dài của Nguyễn Trãi hiện còn được sao chép treo tại đền.


      Hơn hai ngàn năm, bãi Tự Nhiên vẫn an nhiên bên kia sông Hồng, đền Chử Đồng Tử và Tiên Dung còn đây, còn thờ cả cây gậy và chiếc nón, thờ cả Tây Cung , cả ông bố Chử Cù Vân và bà mẹ thánh là Bùi thị Gia! Thờ ba vị, sao lại an tới sáu pho tượng? Ba pho trong, ba pho ngoài. Một chi tiết lịch sử tình cờ lại nằm ở ngôi đền đất Khoái châu này: nguyên ủy là thời 1786-87 khi Nguyễn Hữu Chỉnh nắm quyền Bắc hà, tiền bạc châu báu triều đình đã khánh kiệt là vì quân Tây Sơn Nguyễn Huệ đã thâu vàng bạc vua Lê chúa Trịnh, chở nặng cả 60 chiến thuyền vào Nam, nên Chỉnh đã ra lệnh thu tượng đồng các chùa chiền đền đài mang nấu ra đúc tiền, khi lấy 3 pho tượng đền Chử Đồng Tử thì lạ thay nấu mãi đồng đen không chảy, quan quân cả sợ thánh Bất Tử thiêng liêng hiển linh, bèn khênh cả ba pho về trả lại đền, khi ấy dân chúng Khoái Châu đã đúc ba pho tượng thay thế, thành thử đền có tới 6 pho, ba pho rất cổ, và ba pho mới làm thời Trịnh mạt.


      Ngôi đền Chử Đồng Tử bề thế quy mô, mặt tiền nhìn thẳng ra bãi Tự Nhiên sông Hồng, cổng vào khang trang với hai hàng cây cao như một công viên. Thì ra đây là công trình tu tạo xây dựng của một danh sĩ địa phương, có đầu óc nghệ thuật, tiến sĩ Chu mạnh Trinh (1862-1905), tác giả Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập, Hương Sơn Phong Cảnh Ca, Hương Sơn Nhật trình ca, ông từng làm quan Án sát, đậu Tiến sĩ đời Thành Thái 1892, từng lấy thú tiêu dao du ngoạn làm cảm hứng :


      Bầu Trời, cảnh Bụt

      Thú Hương sơn ao ước bấy lâu nay

      Kìa non non nước nước mây mây…



      Nhìn nét mặt nho nhã qua bức hình truyền thần trên bàn thờ họ Chu, đặt gần chánh điện, mới thấy tấm lòng của người xưa, thấy sự gắn bó của bao thế hệ qua sợi dây huyết mạch Văn Lang, hơn trăm năm xưa, có những người như Chu Mạnh Trinh trân trọng ghi nhớ truyền thống hai ngàn năm trước, thì nay, trên sân đền này, những đứa con của đất mẹ lững thững dưới tàn cây, đang dẵm trên những vết chân ngào nghẹn hương khói người xưa .


      Cơm trưa no nê, được nếm món bánh khúc đặc sản của quê hương Phú Thị, lá khúc thật, mỗi chiếc to bằng ba bốn chiếc bánh thường, tôi nằm dài trên sập gian trái, cạnh bàn thờ Tiến sĩ Đặng Khanh (1511 ?) tức Từ công Đặng Sĩ Tiến, nhắm mắt không phải để ngủ mà để lòng mình trôi về dăm trăm năm trước… Đây, trên mảnh đất đầm lầy Dạ Trạch còn loang loáng những chiếc ao, dài dọc ven đê còn bao khóm tre nứa hàng hàng thách đố thời gian, nếu đi lên ít nữa, tới huyện Đông Yên, có thể nhìn thấy cửa Hàm Tử nơi Trần Quang Khải từng bắt giặc Hồ:


      Đoạt sáo Chương Dương độ

      Cầm Hồ Hàm Tử Quan

      Thái bình tu nỗ lực

      Vạn cổ thử giang san.


      Sau buổi nghỉ trưa, thời gian ở xứ nóng không đo bằng đồng hồ mà đo bằng lòng người, muốn nghỉ là nghỉ, muốn ngơi là ngơi, muốn đi muốn nằm tùy hỉ. Đấy là văn hóa nông nghiệp theo mùa màng thời tiết, trăng tròn giã gạo, trăng khuyết vào bếp luộc khoai, thú an nhiên tự tại, không câu thúc hệ thống, lạc thú nhân sinh quả là sự giản dị mà văn minh cơ giới kỹ thuật khó mang lại được.


      Vào chùa làng, đang tu bổ, cách tư gia tiến sĩ họ Chu không xa, tư gia đã bị phá phách trong tao loạn từ lâu, nhưng vẫn còn lại chiếc giường của quan Tiến sĩ và chiếc giường nhỏ, gỗ lim gỗ gụ vuông vức ấy, sau cả trăm năm, nằm lạnh lẽo nhẫn nhục ở góc chùa. Cổ nhân nói từ cái quạt, cái ghế, cái giường... đều có vận số của nó, nhất là chiếc giường ngủ là vật thể giữ hơi hướm của chủ nhân nhiều nhất. Trên chiếc giường này, một danh nhân đã nằm, đã vắt tay lên trán trầm tư mơ màng gọt giũa từng câu thơ, đã trằn trọc giữa thời Nho mạt, đã ôm gối mây thả hồn về thiên cổ với Chử Đồng Tử - Tiên Dung, đã nằm co nhìn hình hài không có có không của chính mình. Thế thì, nếu làm một cái test DNA không chừng những thớ gỗ đóng giường này còn đậm quánh hồn phách người xưa, những thớ gỗ mang khí sắc tinh anh có thể hóa thành tinh, mộc tinh, toát ra khí lực huyền kỳ linh ảo.


      Chuyện kể rằng thời buổi tao loạn mạt pháp, một chú sâu bọ lên làm người cả gan lấy chiếc giường của bậc chính nhân quân tử về nhà nằm, lạ thay, suốt sáu năm ròng, cả hai vợ chồng đều đau ốm bệnh tật liên miên, đêm nằm ngủ không yên, lâu lâu trong cơn ác mộng lại thấy một vạt áo the xanh đánh vào ngực giữa sảnh đường quan Án... Một ngọn bút tre từ trời xanh xổ xuống như ra lệnh xoay đầu giường về cổng Bồ Tát. Hai vợ chồng tên ngạ quỷ tân thời sợ quá, bèn khênh chiếc giường của quan Án Chu, vừa khênh vừa đọc kinh sám hối, cung kính đặt vào chùa làng. Cho hay, vật đổi sao dời, nhưng quỷ lý vẫn thua thiên lý, và nỗi thăng trầm oan oán trùng trùng cõi thế vẫn không ra khỏi bàn tay Trời Phật siêu linh.


      Khi chúng tôi vào thăm chùa bất chợt thì lại thấy một chú trạc trung niên đang nằm ngủ trên chiếc giường cổ nổi trôi theo vận nước này, chú tung chăn dậy, lúng túng chữa thẹn: "Chúng cháu định sơn lại chiếc giường này đấy ạ !", nghe vậy tôi vội cản “ấy chết, đồ cổ thì phải giữ nguyên mới quý, ai lại mang sơn phết đánh bóng lại". Riêng mộ Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh thì thời kách mệnh 1945 đã bị bọn ma cáo đào lên tìm kiếm vàng bạc đồ quý, xác bị mất cho tới nay con cháu cố tìm kiếm vẫn không thấy !


      *


      Vùng này thoáng đạt lồng lộng gió sông gió biển, đất Khoái đã từng đón nhận cả thuyền tỵ nạn nhà Tống chạy giặc Mông Cổ, một giám quan của Dương Quý Phi giai nhân lừng danh kim cổ đã lập nên thôn Hoa Dương-Hoa tức Trung Hoa, Dương là Dương Quý Phi, dựng đền thờ Quý Phi cầu đảo rất linh nghiệm, sau đổi thành thôn Hương Dương ở huyện Kim Động. Xứ sen trắng nhãn lồng này cũng chính là đất tổ nghề hát Ả đào Đào xá, Đào nương, xênh phách nhộn nhịp cao tít cung mây. Đời Tiền Lê, nơi đây mang tên phủ Thái Bình, là trấn nhiệm của Lê Long Đĩnh, con thứ năm vua Lê Đại Hành, nhưng, sau Lê Long Đĩnh trác táng quá độ, trở thành Lê Ngọa Triều, phải nằm trên giường thiết triều suốt 4 năm làm vua, không chừng đất Khoái Châu hưởng lạc này đã có ảnh hưởng sâu đậm tới vị vua playboy đầu tiên của Việt Nam, chẳng khác gì ông vua Caligula của La Mã thời xưa!


      Từ mối tình của Tiên Dung Đồng Tử với bãi tắm khỏa thân Tự Nhiên -nude beach– đầu tiên của thế giới, đến hồn phách Dương Quý Phi từng chọn bến này làm nơi linh hiển, thế thì đất Khoái Châu khoái lạc épicurien này quả rất xứng làm điểm hội tụ lạc thú trần gian. Tôi nhớ mãi câu nói của các cụ nơi đây:


      Muốn sống lâu, về Khoái châu mà ở...


      Vâng, trình làng nước, không kiếp này thì kiếp sau, cộng nghiệp dân Lạc Việt vẫn cứ quanh quẩn cái nôi delta sông Hồng, cả ngàn năm có mấy ai đầu thai thành Chàm, thành Miên, thành Da Đỏ bao giờ !


      Khoái châu 11-2007



      Lưu Văn Vịnh

      Nguồn: halongvandan.wordpress.com

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Từ Bãi Tắm Khỏa Thân Đến Chiêc Giường Của Chu Mạnh Trinh Lưu Văn Vịnh Tham luận

      - Âm Thanh Từ Một Bọc Trứng Lưu Văn Vịnh Nhận định

      - Nhất Linh người định nghĩa sống và định nghĩa chết Lưu Văn Vịnh Khảo luận

    3. Thòi Luận (Học Xá) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Thời Luận

        Cùng Mục (Link)

      Từ Bãi Tắm Khỏa Thân Đến Chiêc Giường Của Chu Mạnh Trinh (Lưu Văn Vịnh)

      Vài tâm sự về câu chuyện "Nghịch Thiên Cải Mệnh" (Đặng Xuân Xuyến)

      Đông-Juan Thời Hiện Đại (Đặng Xuân Xuyến)

      Tìm con nơi Thiên Đường (Lê Hữu)

      Về bài phát biểu của nữ sinh viên Trung Quốc (Nguyễn Quynh)

      Tiếng Lóng Sài Gòn (Song Thao)

      Những Tượng Đài Không Hận Thù (Nguyên-Việt)

      Giải oan cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (Phạm Văn Duyệt)

      Đưa anh về căn nhà xưa (Nguyễn Ngọc Phúc)

      Đặt Tên Những Con Đường (Nguyễn Quynh)

       
      Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)