|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Tôi ngồi quán cà phê "KHÔNG TÊN" được dựng dưới chân đồi Đồng Long, ven quốc lộ 13, nhưng lại ở trên một nền đất khá cao, nên nhìn qua cửa sổ, tôi có thể vẫn thấy một khúc đường khá dài khoảng 300 thước của Quốc lộ đổ lên huyện lỵ Lộc Ninh và một cánh rừng cao su sẫm màu đất đỏ dọc hai bên. Một cơn mưa buổi chiều đổ xuống đã dứt từ lâu. Bây giờ là một màu nắng nhạt đang mênh mang trên đầu cánh rừng cao su ấy. Cái mầu nắng nhạt mỗi lúc mỗi tối dần sẫm lại tựa như một nỗi buồn đặc quánh đọng lại trên cây rừng đá núi. Hình như cảnh chiều này ở đây, trong khoảng hơn một tháng nay, bỗng đã trở nên quen thuộc, tưởng như đã thành một chất keo dinh bám vào hồn tôi, không gỡ ra được nữa.
Chiều nào tôi cũng lội bộ từ con phố chính trong thanh phố Bình Long, đổ dốc xuống qua ngôi chợ, và tới cái quán cà phê dựng bằng gỗ và lá này. Thoạt đầu, tôi thích cái hẻo lánh của ngôi quán, cái đơn sơ nghèo nàn thanh tĩnh của nó... và rồi sau đó, ở vị trí này, tôi có thể ngắm nhìn Quốc Lộ Mười Ba mù bụi đỏ, cánh rừng cao su chìm dần trong sương chiều... Đời tôi không có gì cần thiết nữa, nên hình như cảnh hoàng hôn buông xuống ở miền rừng núi cao nguyên này, như có vẻ thích hợp với tôi. Phải chăng tôi đã bất chợt tìm thấy ở nơi đây, niềm vui hay đúng hơn là niềm an ủi cuối cùng của đời tôi? Hay la biết đâu chính ông già chủ quán này, sau một đời dọc ngang giang hồ, cuối cùng đã bất ngờ tìm thấy ở dưới chân ngọn đồi này, bên ngoài thành phố, một cái gì đó... để ông quyết định dừng chân cuối đời? Cùng ở với ông có một người con dâu đã luống tuổi và một đứa cháu nội đang ở độ thiều niên. Cha của cậu bé là một sĩ quan của chế độ cũ. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 bị đưa đi học tập cải tạo ở miền Bắc và đã ngã bệnh sốt rét rừng và mất ở đấy. Ông già không còn cách nào khác là phải bán hết những gì quí giá mà ông có được, hầu làm vốn liếng mở ngôi quán này, sinh sống qua ngày. Thấm thoát mà đã được hơn mười năm trời rồi...
Tôi đang đốt thuốc, đốt không ngừng, hết điếu này sang điếu khác, có lẽ cũng đã khoảng gần mười điếu, và nhâm nhi ly cà phê đen thơm lừng thật ngon ở đầu lưỡi, người thiếu phụ lại gần tôi nói:
- Tối nay mời ông khách ở lại nhậu với bố em. Ông đã dặn em nói với ông khách.
- Thế... ông lão ở đâu... cô? Tôi hỏi.
- Bố em vội vã đi ra chợ rồi. Chẳng là ổng mới ở rừng về. Bẫy được mấy con thú. Ổng để lại con chúc, còn mấy con kia đem ra chợ bán mua vài xị rượu đế. Vâng, rượu đế loại Gò Đen, Tây Ninh, uống với thịt chúc xào... Bố em làm món thịt chúc ngon lắm. Ổng muốn đãi ông khách một chầu...
- Thật là quí hóa quá. Xem ra quán này món gì cũng ngon. Cà phê thì tuyệt. Chắc ổng cũng rang cà phê lấy?
- Vâng, chứ còn ai? Cái gì cũng ổng hết. Em chỉ phụ việc thôi. Vâng, em chỉ là người để ổng sai vặt. May mà còn có ổng không thì mẹ con em chẳng biết dựa dẫm vào đâu! Chẳng biết xoay xở ra sao mà sống? Nhất là trong thời buổi những người chiến thắng ngày ba mươi tháng Tư gọi là đổi đời!!! Để em pha cho ông khách một ly cà phê nữa nhé? Ly đó cửa ông hẳn đã cạn rồi?
- Vâng, cô cho tôi xin ly khác. Cà phê quán Không Tên này ngon quá. Có lẽ không đâu sánh bằng!!! Tôi vốn ghiền uống cà phê từ khi còn nhỏ, từ thi mười sáu. Càng nhiều tuổi, càng uống nhiều. Quả thực, không cà phê ở đâu ngon bằng ở đây. Về già, tôi mới được thưởng thức cà phê ngon thế này. Cà phê quán này muốn giữ chân tôi lại đây, gợi ý cho tôi sống những ngày cuối đời mình ở vùng đất này.
Người thiếu phụ có vẻ thắc mắc hỏi:
- Thế ông khách ở đâu lại đây? Vì sao ông khách lại có mặt ở nơi đây? Đây chỉ là một vùng đất núi cao nguyên cằn cỗi, hẻo lánh, buồn bã và hiu hắt lắm!
- Vâng tôi biết, đúng thế... Cách đây hơn hai thập niên, tôi đã đến đây, đã ở đây...
- Thế ra ông khách đã ở đây à? Vì sao ông khách đã ở đây? Câu chuyện cua ông khách chắc là phải... Em tò mò muốn nghe lắm. Ông khách nói đi!
-Vâng, tôi đến Bình Long trước Tết Mậu Thân 1968. Tôi vừa mới tốt nghiệp khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị trường Bộ Binh Thủ Đức. Tôi chọn đơn vị địa phương quân, về Tiểu Khu Bình Long, thuộc khu 32, vùng 3 chiến thuật. Vâng, một chiếc máy bay trực thăng của không quân Mỹ đã đổ tôi xuống phi truờng Bình Long, một phi trường quá sức là đơn sơ, tôi không thể nào hình dung được rằng đó lại là một phi trường. Một sân rộng đất và cát, xung quanh là hàng rào dây kẽm gai. Ở góc sân là một mái tôn đứng chơ vơ dưới nắng, gần đó vài thùng phuy xăng rỗng lăn lóc. Chỉ có thế thôi!!! Chiếc trực thăng đổ tôi xuống rồi nó cất cánh ngay. Bụi mù mịt. Lúc ấy khoảng hai giờ chiều, nắng chói chang trên những cánh rừng chung quanh phi trường. Tôi buồn bã khoác ba lô lên vai, ra khỏi phi trường, đi vào tỉnh lỵ, hỏi thăm đường vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Thời chiến mà cô. Vâng tôi đang làm giáo sư tại một trường Trung học ở một tỉnh lỵ nhỏ, bỗng một hôm nhận được lệnh gọi của Bộ Quốc Phòng phải lên đường nhập ngũ. Vâng, thời điểm giữa thập niên 1960, miền Bắc Việt Nam đã đưa cả sư đoàn xâm nhập miền Nam bằng con đường mòn Hồ Chí Minh.
Họ đã mở những trận địa chiến. Họ dựng nên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để mở cuộc đấu tranh chính trị, để đáng lừa nhân dân miền Nam, để che mắt nhân dân thế giới. Miền Nam bắt buộc phải tự vệ, phải đương đầu với cuộc xâm lăng đó... Phải, chúng tôi đã thua trận cuối cùng tháng 4 năm 1975 đó vì Đồng Minh Hoa Kỳ đã bỏ chúng tôi. Chúng tôi không có súng đạn và lương thực nữa. Cô ạ, anh hùng khi gấp cũng khoanh tay. Trong khi đó, kẻ địc miền Bắc lại được Nga Tầu viện trợ ồ ạt súng đạn, xe tăng, đại pháo. Chúng tôi, một quân đội tinh nhuệ bỗng nhiên bị bó tay, không còn phương tiện chiến đấu. Và rồi những gì đã xảy ra, cô đã biết rồi đó. Chồng cô và tôi đều ở trong đoàn quân tan vỡ đó, mất hết những gì mình có, kể cả tính mạng của mình như trường hợp chồng cô. Còn tôi? Tôi không chết trong hơn mười năm đi tù mà Cộng sản Việt Nam gọi là "học tập cải tạo", nhưng thật ra linh hồn tôi đã chết, tôi chỉ còn cái xác lây lất, thoi thóp mà thôi. Vâng, tôi đã đến Bình Long ngày ấy như thế đó, và tôi đã ở đây hơn năm năm trời. Tôi đã lặn lội trong những cánh rừng kia, đã nằm nhiều ngày bên Quốc Lộ Mười Ba, đã ngủ đêm ở khu chợ, công viên Tao Phùng... đã nghe tiếng hú của đạn 122 ly của Việt Cộng pháo vào tỉnh lỵ. Cũng như đã nhiều lần chạm súng với chúng ở Tân Hưng, Xa Trạch, Xa Cam... nghe tiếng AK ròn rã của chúng, chúng tôi cũng giáng trả bằng M16, M72. Bây giờ cuộc chiến đã tàn. Tôi trở lại nơi đây, thoạt tiên chỉ có ý nghĩ thăm lại chốn xưa, nơi có nhiều kỉ niệm vui buồn, đau khổ và hạnh phúc, hùng tráng và bi tráng. Nhưng sau gần một tháng về đây, tôi bỗng có ý nghĩ muốn sống những ngày cuối đời của mình ở nơi đây. Nhưng tôi phải sắp xếp chứ không phải muốn là thực hiện được ngay.
Tôi ngừng nói. Người thiếu phụ ngồi ở quầy gỗ mỉm cười.
- Cũng chẳng biết thế nào, có khi đến ước vọng cuối một đời người chưa chắc đã thực hiện nổi. Thời đại này đa cho chúng ta thấy đó, mình có làm chủ cuộc đời của mình đâu, nhất là mình đang là kẻ chiến bại. Kẻ chiến thắng trong khoảng gần hai chục năm nay đã ra sức xóa sạch tất cả những cái gì gọi là của chế độ cũ, của Miền Nam Việt Nam. Họ đuổi chúng ta ra khỏi thành phố.
- Phải, ông khách nói đúng, bố chồng em chỉ có thể dựng ngôi quán bán cà phê ở ngoại thành bên ngoài tỉnh lỵ. Và củng chẳng đặt tên cho ngôi quán nữa. Ông chỉ dùng một cục than đen viết nguệch ngoạc trên cánh cửa mấy chữ... Quán cà phê Không Tên!... Ổng viết mấy chữ đó mà mỉm cười cay đắng. Ổng nói rằng chúng ta đã bị tước đoạt hết, chúng ta đã mất hết không còn gì. Họ đang bỏ tù hết thảy chúng ta. họ cho mỗi người một con số tù. Chúng ta không còn tên tuổi gì nữa. Tên của những thành phố miền Nam cũng đã bị xóa bỏ hết. Thế đấy!
Tôi mỉm cười:
- Nhưng cà phê quán Không Tên rất ngon! Thật là cả một nghệ thuật pha chế của ông lão!
- Cái khó nhất là lúc rang cà phê. Không được để cà phê cháy hay quá lửa. Người nóng nảy không thể rang cà phê ngon được ông khách ạ. Phải để bếp lửa riu riu, phải luôn tay khuấy cho thật đều mẻ cà phê. Ông thường nói rang cà phê là cả một nghệ thuật. Có thể hiểu được cá tính con người qua việc rang cà phê. Trước khi rang thì mẻ cà phê được tẩm bằng bơ Pháp, lòng đỏ hột gà và nước mắm nhỉ Phú Quốc. Khi rang thì phải rang bằng mỏ gà mái. Đơn giản thế thôi nhưng để rang mội mẻ cà phê cho thật thành công không phải là chuyện dễ dàng. Ngọn lủa, vâng, ngọn lửa cho vừa là điều hết sức quan trọng. Em cũng đã từng rang cà phê như thế, nhưng chưa thể đạt được như ổng. Ổng cười nói rằng phải coi việc rang cà phê như một nghệ thuật, nghệ thuật của một người nghệ sĩ.
- Thảo nào, thảo nào...
Và tôi đã ngồi lại quán cà phê Không Tên lâu hơn mọi buổi chiều khác, chờ lão già chủ quán về làm món nhậu thịt chúc... Khi màn đêm bắt đầu buông xuống cánh rừng cao su ven Quốc Lộ, khi đất đỏ sẫm mầu, khi những tia nắng rớt cuối cùng khuất hẳn ở bên kia ngọn đồi Đồng Long, khi mà tỉnh lỵ Bình Long ở trên đỉnh đồi bắt đầu xuất hiện lác đác những ngọn đèn đường tù mù trong hàng cây thì lão quán ra đóng của quán lại, thắp lên ngọn đèn bão. Và bốn người chúng tôi ngồi quanh một cái bàn ở góc quán. Mùi thơm của món thịt rừng pha với mùi thơm của rượu Gò Đen thật hấp dẫn. Tôi ngồi đối diện lão quán, bên cạnh cậu thiếu niên. Dưới ánh đèn, tôi bỗng nhận thấy đôi má ửng hồng và nhất là đôi mắt mơ màng, đôi môi mọng lên của người thiếu phụ. Có lẽ chưa bao giờ tôi cảm nhận được nét đẹp của một người đàn bà nào bằng người đàn bà này. Cái đẹp tự nhiên không một chút son phấn trang điểm sao mà dị kỳ đến thế, làm cho tôi trong một thoáng cảm thấy ngây ngất hơn là uống ly rượu Gò Đen mà lão quán đã rót cho tôi.
Tôi nâng ly:
- Nào, xin mời lão quán. Chúc sức khỏe lão quán cũng như chúc cả nhà được vui vẻ, được nồng ấm như ly rượu này.
Người thiếu phụ cũng uống một ly nhỏ với tôi và ông già. Chỉ có cậu thiếu niên không được phép uống. Cậu uống một ly nước cam, ăn nhanh rồi rút lui. Độ nửa giờ sau, người thiếu phụ cũng buông đũa, chỉ ngồi nhìn hai người chúng tôi uống rượu và nói chuyện. Khi tôi ca ngợi nghệ thuật rang cà phê của lão quán, lão cười khà một tiếng rồi cười nói:
- Rang cà phê đến một trình độ gọi là nghệ thuật, thiết tưởng không khó. Ngươi rang cà phê mà được gọi là nghệ sĩ, lão nghĩ rằng ông khách quá lời khen chăng. Bởi vì theo lão, người nghệ sĩ như nhà văn, nhà thơ, kịch tác gia... sống trong chế độ độc tài độc đảng ở Việt Nam hiện nay, mà nói thế nao, viết thế nào... cứ hư hư thực thực... không phải là nói cái đó mà là nói cái đó, không phái viết về cái đó mà là viết về cài đó... nó tài tình đến độ người nghe, người đọc hiểu được cái đó... Nghệ thuật như thế ấy mới la cao chứ? Mới là trình độ chứ? Đó mới là hơn cái nghệ thuật rang cà phê của lão già này! Ông khách ạ, lão đang muốn nói đến vở kịch "Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt" của Lưu Quang Vũ đã làm cho bọn cầm quyền ở Hà Nội tức thâm gan tím ruột. Và nếu lão không lầm thì chính Hà Nội đã ra lệnh giết tác giả - cả vợ con tác giả - ở cầu Phú Lương năm 1988, chỉ cách đây mấy năm qua một tai nạn xe hơi được dàn dựng tinh vi, như một tai nạn bất ngờ, vô tình. Lão đây vô cùng kính phục cái nghệ thuật tả chân, phải nói là siêu việt của Lưu Quang Vũ. Thiên tài! Lưu Quang vũ là một thiên tài, ông khách ạ. Mỗi câu đối thoại trong vở kịch là một mũi tên bắn thẳng vào thành lũy của bọn đồ tế khát máu, bạo tàn, cực kỳ dã man ở Hà Nội. Thế cho nên bọn họ đã ra lệnh giết cả nhà Lưu Qưang Vũ. Ông khách biết vụ việc này chứ?
Tôi nhẹ nhàng:
- Thưa lão quán, tôi quả có biết, nhưng ít lâu nay bận kiếm sống cũng như có nỗi buồn riêng không thoát ra được, nên tôi ít chú ý, không đi sâu vào được câu chuyện, vào vở kịch nổi tiếng ấy. Dẫu rằng tôi được biết từ thoại kịch, đã được chuyển thành một vở ca cải lương và một phim kịch do một công ty điện ảnh đâu ở Hậu Giang sản xuất. Lập tức tuồng cải lương cũng như phim kịch bị chính quyền ngăn cấm sau đó. Tôi có để ý đi tìm mua, xem cho biết rõ, nhưng không chỗ nào dám bán. Chỉ được nghe kể. Giờ đây lão quán biết rõ, xin cho nghe, cho được thỏa lòng mong ước bấy lâu.
Người thiếu phụ cũng hùa theo tôi:
- Phải đấy, con cũng chưa được nghe bố kể cho đến tận đầu đuôi xuôi ngược của vở kịch, chỉ mới biết loáng thoáng xin bố kể rõ cho con nghe với. Bố mà không kể thì biết ai kể được đây chứ? Hàng ngày bố ôm cái radio nghe đài BBC, đài VOA... Cuối tuần nào cũng ghé qua nhà sách, mua một vài tờ báo về chong đèn đọc cho đến khuya. Chuyện vở kịch "Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt" nghe nói đã dược trích diễn ở một trường đại học nào ở tận bên Mỹ. Chuyện tác giả Lưu Quang Vũ bị giết trong một tai nạn mờ ám... Bố không biết rõ thì còn ai biết rõ?
- Thôi đi, mày nói nhiều quá. Được rồi, để tao kể. Tao cũng không thể hiểu biết hết được. Biết bao nhiêu kể bấy nhiêu...", và ông bắt đầu kể...
Tôi vội trao cho ông ly rượu:
~ Khoan đã, uống ly rượu này đã rồi hẵng kể. Rượu vào lời ra mới hay ông quán ạ."
Lão quán làm một hơi cạn ly, đặt xuống bàn, khà một tiếng...