|
Trần Trọng San(29.10.1930-19.8.1998) |
Tôi ngồi quán cà phê "KHÔNG TÊN" được dựng dưới chân đồi Đồng Long, ven quốc lộ 13, nhưng lại ở trên một nền đất khá cao, nên nhìn qua cửa sổ, tôi có thể vẫn thấy một khúc đường khá dài khoảng 300 thước của Quốc lộ đổ lên huyện lỵ Lộc Ninh và một cánh rừng cao su sẫm màu đất đỏ dọc hai bên. Một cơn mưa buổi chiều đổ xuống đã dứt từ lâu. Bây giờ là một màu nắng nhạt đang mênh mang trên đầu cánh rừng cao su ấy. Cái mầu nắng nhạt mỗi lúc mỗi tối dần sẫm lại tựa như một nỗi buồn đặc quánh đọng lại trên cây rừng đá núi. Hình như cảnh chiều này ở đây, trong khoảng hơn một tháng nay, bỗng đã trở nên quen thuộc, tưởng như đã thành một chất keo dinh bám vào hồn tôi, không gỡ ra được nữa.
Chiều nào tôi cũng lội bộ từ con phố chính trong thanh phố Bình Long, đổ dốc xuống qua ngôi chợ, và tới cái quán cà phê dựng bằng gỗ và lá này. Thoạt đầu, tôi thích cái hẻo lánh của ngôi quán, cái đơn sơ nghèo nàn thanh tĩnh của nó... và rồi sau đó, ở vị trí này, tôi có thể ngắm nhìn Quốc Lộ Mười Ba mù bụi đỏ, cánh rừng cao su chìm dần trong sương chiều... Đời tôi không có gì cần thiết nữa, nên hình như cảnh hoàng hôn buông xuống ở miền rừng núi cao nguyên này, như có vẻ thích hợp với tôi. Phải chăng tôi đã bất chợt tìm thấy ở nơi đây, niềm vui hay đúng hơn là niềm an ủi cuối cùng của đời tôi? Hay la biết đâu chính ông già chủ quán này, sau một đời dọc ngang giang hồ, cuối cùng đã bất ngờ tìm thấy ở dưới chân ngọn đồi này, bên ngoài thành phố, một cái gì đó... để ông quyết định dừng chân cuối đời? Cùng ở với ông có một người con dâu đã luống tuổi và một đứa cháu nội đang ở độ thiều niên. Cha của cậu bé là một sĩ quan của chế độ cũ. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 bị đưa đi học tập cải tạo ở miền Bắc và đã ngã bệnh sốt rét rừng và mất ở đấy. Ông già không còn cách nào khác là phải bán hết những gì quí giá mà ông có được, hầu làm vốn liếng mở ngôi quán này, sinh sống qua ngày. Thấm thoát mà đã được hơn mười năm trời rồi...
Tôi đang đốt thuốc, đốt không ngừng, hết điếu này sang điếu khác, có lẽ cũng đã khoảng gần mười điếu, và nhâm nhi ly cà phê đen thơm lừng thật ngon ở đầu lưỡi, người thiếu phụ lại gần tôi nói:
- Tối nay mời ông khách ở lại nhậu với bố em. Ông đã dặn em nói với ông khách.
- Thế... ông lão ở đâu... cô? Tôi hỏi.
- Bố em vội vã đi ra chợ rồi. Chẳng là ổng mới ở rừng về. Bẫy được mấy con thú. Ổng để lại con chúc, còn mấy con kia đem ra chợ bán mua vài xị rượu đế. Vâng, rượu đế loại Gò Đen, Tây Ninh, uống với thịt chúc xào... Bố em làm món thịt chúc ngon lắm. Ổng muốn đãi ông khách một chầu...
- Thật là quí hóa quá. Xem ra quán này món gì cũng ngon. Cà phê thì tuyệt. Chắc ổng cũng rang cà phê lấy?
- Vâng, chứ còn ai? Cái gì cũng ổng hết. Em chỉ phụ việc thôi. Vâng, em chỉ là người để ổng sai vặt. May mà còn có ổng không thì mẹ con em chẳng biết dựa dẫm vào đâu! Chẳng biết xoay xở ra sao mà sống? Nhất là trong thời buổi những người chiến thắng ngày ba mươi tháng Tư gọi là đổi đời!!! Để em pha cho ông khách một ly cà phê nữa nhé? Ly đó cửa ông hẳn đã cạn rồi?
- Vâng, cô cho tôi xin ly khác. Cà phê quán Không Tên này ngon quá. Có lẽ không đâu sánh bằng!!! Tôi vốn ghiền uống cà phê từ khi còn nhỏ, từ thi mười sáu. Càng nhiều tuổi, càng uống nhiều. Quả thực, không cà phê ở đâu ngon bằng ở đây. Về già, tôi mới được thưởng thức cà phê ngon thế này. Cà phê quán này muốn giữ chân tôi lại đây, gợi ý cho tôi sống những ngày cuối đời mình ở vùng đất này.
Người thiếu phụ có vẻ thắc mắc hỏi:
- Thế ông khách ở đâu lại đây? Vì sao ông khách lại có mặt ở nơi đây? Đây chỉ là một vùng đất núi cao nguyên cằn cỗi, hẻo lánh, buồn bã và hiu hắt lắm!
- Vâng tôi biết, đúng thế... Cách đây hơn hai thập niên, tôi đã đến đây, đã ở đây...
- Thế ra ông khách đã ở đây à? Vì sao ông khách đã ở đây? Câu chuyện cua ông khách chắc là phải... Em tò mò muốn nghe lắm. Ông khách nói đi!
-Vâng, tôi đến Bình Long trước Tết Mậu Thân 1968. Tôi vừa mới tốt nghiệp khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị trường Bộ Binh Thủ Đức. Tôi chọn đơn vị địa phương quân, về Tiểu Khu Bình Long, thuộc khu 32, vùng 3 chiến thuật. Vâng, một chiếc máy bay trực thăng của không quân Mỹ đã đổ tôi xuống phi truờng Bình Long, một phi trường quá sức là đơn sơ, tôi không thể nào hình dung được rằng đó lại là một phi trường. Một sân rộng đất và cát, xung quanh là hàng rào dây kẽm gai. Ở góc sân là một mái tôn đứng chơ vơ dưới nắng, gần đó vài thùng phuy xăng rỗng lăn lóc. Chỉ có thế thôi!!! Chiếc trực thăng đổ tôi xuống rồi nó cất cánh ngay. Bụi mù mịt. Lúc ấy khoảng hai giờ chiều, nắng chói chang trên những cánh rừng chung quanh phi trường. Tôi buồn bã khoác ba lô lên vai, ra khỏi phi trường, đi vào tỉnh lỵ, hỏi thăm đường vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Thời chiến mà cô. Vâng tôi đang làm giáo sư tại một trường Trung học ở một tỉnh lỵ nhỏ, bỗng một hôm nhận được lệnh gọi của Bộ Quốc Phòng phải lên đường nhập ngũ. Vâng, thời điểm giữa thập niên 1960, miền Bắc Việt Nam đã đưa cả sư đoàn xâm nhập miền Nam bằng con đường mòn Hồ Chí Minh.