|
Duy Lam(..1932-4.2.2021) | Nguyễn Vỹ(.0.1910-4.2.1971) |
Tôi sinh ra và lớn lên trên dãi đất nghèo miền Trung. Thành ngữ dân gian gọi là nơi “chó ăn đá, gà ăn sỏi ”, hiện thực hơn người ta thường nói đây là miền “nắng cháy da, mưa thúi đất”, báo chí thì dùng biệt danh “Vùng hỏa tuyến”. Trong nhạc của ca sỹ Duy Khánh -người đồng hương- có câu than thở “Quê hương em nghèo lắm ai ơi! Mùa Đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn…”. Đó chính là Quảng Trị.
Ấy thế mà nào tôi có được coi là dân thị xã. Làng của tôi thuộc một vùng quê nằm ngoài rìa, dọc theo Quốc lộ I. Làng có cái tên rất hay: Long Hưng nhưng dân chúng quanh năm chúi đầu trên những thửa ruộng cằn khô, không biết lúc nào mới được là “Rồng vươn lên” như tên gọi? Làng nghèo đến mức tên người cũng ít khi thêm được cái chữ lót như một nhà văn từng nhận xét. Làng nổi tiếng vì thổ ngữ đặc biệt. Hễ chúng tôi thốt ra câu nào là đã nghe nhận xét: “A, dân Long Hưng.”
Dân Long Hưng chỉ có một niềm tự hào là giỏi Toán. Dù nghèo nhưng hầu hết nam sinh của làng đều thi đậu vào ngôi trường trung học công lập danh giá của thị xã: Trường Nguyễn Hoàng. Các giáo sư phần đông là người Huế, hàng tuần đi xe taxi ra dạy. Họ thường khen chúng tôi về sự thông minh. Đặc biệt là trong mục “Toán chạy”; đây là loại toán hầu như chỉ dành cho học sinh giỏi. Mạ tôi thường lấy gương của một người làng là Bác sỹ Văn Tần để răn dạy hai anh em chúng tôi cố gắng học hành.
Mặc cảm con nhà nghèo khiến tôi ít khi trò chuyện với ai, đặc biệt với các bạn nữ trong lớp. Mỗi lần tôi nói câu gì, tụi bạn hay trêu “Cóc mở miệng”. Điều đó càng làm tôi câm lặng hơn. Con trai mười bảy, mười tám thường đỏm dáng. Đi học đã biết vuốt tóc láng mượt bằng nước lạnh, miệng ngậm điếu thuốc Ruby Queen, viết thư tỏ tình với bạn gái. Riêng tôi “nhà quê” trong chiếc áo ngã màu cháo lòng, quần xanh bạc phếch…
Lên đệ nhị cấp, chúng tôi bắt đầu lo lắng với lệnh tổng động viên vừa ban bố. Phải cố mà thi đậu. “Rớt Tú tài anh đi trung sĩ”. Chiến tranh đã bao phủ cả quê hương. Đêm đêm nghe tiếng đại bác rền vang, máy bay quân sự bay về phía Gio Linh, Cam Lộ rợp trời, nhà nhà chuẩn bị những cái hầm trú ẩn bằng bao cát quân đội. Thỉnh thoảng đã có nhà trúng đạn pháo kích của Việt Cộng, tiếng khóc than vang trời dậy đất.
Tôi may mắn đậu Tú tài hai không phải vào Thủ Đức “thức đủ năm canh” như các bạn nam cùng lớp. Nhưng tôi “out” khi cố chen chân vào Đại học sư phạm Huế. Đành phải ghi danh học MPC ở Đại Học Khoa học. Đi dạy kèm gặp bà chủ ác nghiệt, tôi lên giảng đường bữa đói bữa no. Ngày về làng xin tiền mua sách, tôi ứa nước mắt nhìn mạ lần mò chiếc kim băng mở túi áo lôi ra những đồng bạc lẻ. Sau bao đêm trằn trọc, tôi dặn dò thằng em lớp 11 cố học cho mạ yên tâm rồi quyết định thi vào khóa 28 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam vào năm 1971 theo lời khuyên của anh Hoàng Tấn, K25, người Quảng Trị. Nguyên văn lời anh: “Tất cả có chính phủ lo. Ra trường, ngoài bằng tốt nghiệp (Võ) còn có thêm bằng Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng (Văn) . Học 4 năm với chương trình đại học lại được xem như văn võ song toàn. Đó cũng là một lựa chọn tốt cho người trai thời loạn muốn thỏa chí tang bồng…”
Cuối tháng 12 năm 1971 tôi nhập trường. Người Pháp tôn vinh Đà Lạt là Deuxieme Paris; có bản nhạc ca ngợi “Ai lên xứ hoa đào”; văn chương hết lời tán dương những cô gái má đỏ môi hồng. Nhưng qua mùa Tân Khóa Sinh, khi đã khoác lên mình bộ quân phục kaki vàng với cầu vai alfa đỏ, được ra phố cuối tuần tôi cũng chẳng biết đi đâu ngoài mấy vòng loanh quanh ở khu Hòa Bình, hay chui vào ciné Ngọc Lan hoặc Ngọc Hiệp rồi xuống mấy chục bậc cầu thang leo xe Dodge về lại trường. Thôi, những lần sau đành ở lại phòng, làm bạn với mấy thằng cù lần, lôi Anh văn ra học vì thuộc loại “dốt” ngoại ngữ và nhận biệt danh là nhóm “Lờ quờ”. Thằng Thế Hân có biệt danh “Hân gà” vì thấy gái là mặt đỏ au và lúng túng như gà mắc tóc. Thằng Kim Long, lai Miên, gốc Trà Vinh, luôn được đại đội phó “ưu ái ” cho đi gác Đài Tử Sĩ nhưng cứ cười tươi… Cả bọn không bao giờ có vinh dự được gọi tên ra hội quán Huỳnh Kim Quang gặp người thân chứ đừng nói chi đến chuyện gặp Đào!
Trời không thương nhà nghèo, Quảng Trị trở thành chiến địa ác liệt vào “mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Mạ tôi và đứa em may mắn vượt qua Đại Lộ Kinh Hoàng vào ở trại tạm cư Hòa Khánh- Đà Nẵng, hằng tháng ăn gạo trợ cấp. Thôi thế là tôi không bao giờ còn được trở về căn nhà tranh với bao nhiêu kỷ niệm buồn vui thời thơ ấu. Làng tôi, Ngã Ba Long Hưng -được nhắc nhiều lần trong cuốn Mùa Hè đỏ lửa của nhà văn quân đội Phan Nhật Nam- đã tan nát, điêu tàn! Mặc cảm chồng chất mặc cảm, tôi co mình trong vỏ ốc, tháng tháng dành dụm chút tiền lương cấp trung sĩ ít ỏi, gởi về phụ mạ nuôi em.
Tháng 11 năm 72, khóa 27 và 28 trường Võ Bị nhận lệnh đi công tác Chiến tranh chính trị miền Trung. Tôi được phân công về Huế. Thành phố thơ mộng hiền hòa bên dòng sông Hương như sôi động hẳn lên bởi hình ảnh hào hùng của các chàng trai cằm gập vuông góc, đi đứng oai phong. Anh chàng Ngọc cùng đại đội vỗ vai tôi “Gái Huế dễ thương thật! Mày có bạn nhiều giới thiệu cho tao một em”. Tôi cười méo xệch “Kiếm đâu ra!”. Ấy thế mà tuần sau đã thấy Ngọc ngồi với một nàng trong quán chè Sầu, miệng mồm như tép nhảy. Thằng Thanh, tóc hớt ba phân lộ ra mấy cái sẹo to tổ bố cũng quen một em Đồng Khánh hẳn hoi. Chỉ có tôi lủi thủi ngồi cắt dán mấy cái khẩu hiệu với thằng Tập. Thằng này đã có người yêu ở Củ Chi và tự hứa tuyệt đối chung tình.
Thật sự tuổi thanh niên ai chẳng rung động trước những bóng hồng. Thời học lớp 12, tim tôi đã từng hồi hộp với một cô bạn cùng lớp. Em có mái tóc xõa ngang vai, hiền hòa và học giỏi. Nhưng nhà em kín cổng thâm nghiêm và tôi chưa một lần hé môi. Tôi biết em đang học ĐHSP Huế khoa Vạn Vật nhưng cũng không dám tìm gặp. Liệu em còn nhớ tôi, thằng cù lần hôm nay đã mang quân phục nhưng vẫn mãi cù lần. Vậy là trong khi các bạn vi vu cuối tuần với các nàng ở chè Cồn Hến, bánh bèo Tây Thượng, cà phê Góp Gió… tôi ôm cây đàn guitar bị đứt dây ngồi nghêu ngao “Sao em không đến chiều nay Thứ Bảy?”. Niên trưởng Hưng, K 27 tò mò nhìn tôi “Hiệp có bình thường không?”. Dù sao tôi cũng không phải rơi vào tình trạng gởi thư xin tiền nhà như mấy thằng bạn. Mạ tôi nghèo kiếm đâu ra tiền!!!
Về Trường ba tuần, chúng tôi lại được lệnh đi tiếp đợt 2. Hiệp định Paris vừa ký kết, phải tăng cường công tác CTCT. Lần này đại đội tôi được phân công về Quảng Nam–Đà Nẵng. Mấy thằng bạn có Đào ở Huế méo mặt tưởng đâu phen này được “tái nạm” em yêu. Máy bay C130 hạ cánh xuống phi trường Hòa Khánh, tôi có cơ hội vào Trại tạm cư thăm mạ, nhét cho thằng em ít tiền và mấy lời khuyên, rồi lên xe GMC vào Quảng Nam.
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Nam là Đại tá Lê Trí Tín. Ông xuất thân từ quân trường Đà Lạt, và trước đây, ông cũng từng ở trong khối Quân sự vụ của Trường Võ Bị nên quan tâm rất chu đáo đến các khóa đàn em. Chúng tôi được cung cấp ưu tiên lương thực, thực phẩm rồi chia ra từng toán nhỏ về các Chi khu. Có toán lên tuốt luốt vùng đồi núi Thường Đức, Quế Sơn; gần gần thì Đức Dục, Điện Bàn, Đại Lộc; đẻ bọc điều thì ở ngay thị xã Hội An… Riêng nhóm tôi về Duy Xuyên.
Duy Xuyên là một vùng đất cách Đà Nẵng khoảng 45 km phía Tây Nam, nằm dọc theo bờ Nam con sông Thu Bồn thơ mộng, con sông đi vào thơ ca của người xứ Quảng. Tôi chưa một lần đến đây nhưng đã thuộc mấy câu thơ của Tường Linh thời trung học:
Tôi nghĩ về một dòng sông
Dòng sông quê hương có đôi bờ đất mật
Có những tên làng tôi yêu mến nhất
Có triền xanh, gành xám, bãi vàng
Những hàng cừ xe gió nước reo vang
Những thác xiết, nhọc nhằn thuyền lên ngược
Nguồn hai ngã, lòng sông chung nguồn nước
Khúc cạn khúc sâu, phía lở phía bồi
Sông Thu Bồn thương nhớ của ta ơi!
(Dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn)
Một quận nghèo nhưng hiền lành với những căn nhà nhỏ nép mình sau vườn khoai sắn xanh ngắt, những ruộng dâu bạt ngàn. Chúng tôi ở trong chi khu, hằng ngày phân tán thành những nhóm nhỏ làm công tác dân vận ở các xã như Xuyên Thọ, Xuyên Châu, Xuyên Hòa, Xuyên Phú… Thằng Sanh, nổi tiếng hào hoa, đi một vòng phố chợ rồi về nói với cả nhóm: “Mấy cô nhan sắc trung bình trở lên đều là “hoa có chủ” của các anh công tác đợt 1 hết rồi, tao quay về mái nhà xưa thôi”. Nói xong hắn lúi húi viết thư hẹn hò với em Thành Nội!
Nhớ lần ở Huế, nhóm tôi được thằng Tiến mời tới nhà ăn giỗ. Cả một bàn dài có đến mấy chục món nhưng món nào cũng bày chút chút trong những chiếc dĩa nhỏ xíu. Báo hại cả bọn lúc về phải ghé chợ Đông Ba mua thêm chục mì gói. Thằng Quảng dân Bến Tre cằn nhằn:
– “Chịu không nổi kiểu cách của ‘Dân các Mệ’. Cả bàn, tao quơ đũa một phát là sạch bách. Ăn vậy hèn chi gái Huế cái eo nhỏ chút xíu trông thấy mà thương!”
Còn đây, người xứ Quảng mộc mạc chơn chất như những món ăn của họ. Khoai lang Trà Đỏa củ to bằng cái đầu con nít, vỏ trắng ruột vàng phải cắt năm xẻ bảy đem nấu, bột khoai thơm phức nghẹn tới cổ họng. Ăn món gì cũng có cái bánh tráng kèm theo, không nướng thì nhúng nước cuốn. Lần đầu tiên tôi biết món Mì Quảng, niềm tự hào của dân Quảng Nam. Cách nấu không cầu kỳ như bún bò Huế nhưng cách ăn trông thật ngon với những cây cải non, sợi mì trắng, miếng sườn heo, con tôm chiên vàng óng, mẩu bánh tráng dòn tan trong miệng, tay cầm trái ớt xanh cắn cái bụp… Có lần lãnh lương, cả bọn kéo nhau đi ăn đặc sản Bê Cầu Mống ở đầu cầu Câu Lâu thuộc quận Điện Bàn, tôi ngớ người ra khi nghe chị chủ quán nói “Chừng nuớ bua rùa. Đừng bỏa nữa mòa mẹn!” (Chừng đó vừa rồi. Đừng bỏ nữa mà mặn!). Dường như tôi đang nghe lại cái giọng Long Hưng quê kiểng xứ mình!
Tuổi thanh niên thấy gái như nam châm hút sắt. Qua hai tuần lại thấy các chàng SVSQ bắt đầu có cặp khi có màn trình diễn văn nghệ với các cô giáo trường Phan Bội Châu. Anh chàng Sanh phát hiện ra “Vẫn còn nhiều em coi ngộ lắm, mà là hoa chưa có chủ mới tuyệt! ”.
Thật sự, con gái vùng Điện Bàn, Duy Xuyên khá dễ thương. Họ không tiểu thư như gái Huế. Đa số có một vẻ đẹp khỏe mạnh, làn da trắng mát do vùng đất này xưa kia chuyên dệt lụa nuôi tằm. Họ ăn nói mạnh bạo và khá tự nhiên trong giao tiếp nhưng với bản chất rụt rè của mình, tôi chẳng kiếm được một em để dung dăng thị xã Hội An như các bạn.
Vào một ngày Thứ Bảy, nhóm tôi đi đắp đất làm đường ở xã Xuyên Châu. Cuối tuần nên anh nào trông cũng vội vàng để về văn nghệ văn gừng với các cô giáo. Gần 3 giờ, nhóm “Lờ quờ” gồm tôi, Thế Hân và Kim Long nhận bao giàn cho các bạn làm nốt đoạn cuối cùng. Ba thằng con nhà ruộng đồng, lại không có em nên chúng tôi nhẩn nha cho đến xế chiều. Thấy một căn nhà có cái cổng vào bị lún, ba thằng thấm nhuần công tác dân vận làm luôn. Mọi việc hoàn tất, chúng tôi vào nhà xin rửa chân tay. Người thiếu phụ, chủ nhà, khoảng trên năm mươi, nét mặt còn vương nét một thời xuân sắc, không có vẻ mặn mà khi giao tiếp, chỉ chúng tôi ra giếng sau vườn.
Cái giếng được bao bọc bằng những viên đá ong mang dấu ấn thời gian. Nước giếng trong vắt và mát lạnh. Một cây ngọc lan tỏa bóng mát với những búp hoa còn xanh nhỏ nhắn như ngón tay út của người thiếu nữ đẹp. Tôi đưa tay vít một nhánh thì bỗng có… trái khế cắn dỡ bay vèo vào cánh tay. Ngước nhìn lên, cách đó khoảng năm mét, một cô gái đang vắt vẻo trên cành khế cổ thụ. Tôi nghĩ thầm “Cô này mà bắn tỉa thì hết sẩy!”. Không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà hôm nay Cóc tôi mở miệng:
– Xin cái hoa, làm gì dữ vậy cô em?
– Nhưng nó đang xanh, hái thấy thương!
– Vậy cô em “trả công” chúng tôi cái gì đây?
Tưởng nói đùa cho vui, nhưng ai ngờ cô ta nhảy xuống và đi tới chúng tôi với một túi khế trên tay. Cô khoảng 18, 19 tuổi, mái tóc dài, làn da trắng hồng. Kim Long buột miệng “ Ui! Chu cha…”
Chưa nói được câu nào thì từ trong nhà có tiếng gọi:
- Hạnh, vào nhà ngay!
- Dạ… Cô gái lè lưỡi, nhét vào tay tôi túi khế nặng rồi chạy biến.
Ba thằng ra về với “thành quả lao động”.
Tối hôm ấy, cả nhóm được tráng miệng với những trái khế vàng ươm, ngọt thanh. Thế Hân thắc mắc: “Sao bà mẹ coi bộ hổng có cảm tình với bọn mình?”. Anh chàng Thu đào hoa góp chuyện: “Chắc bả sợ con gái rơi vào tay tụi bây, lũ gian ác!”
Dù sao tôi cũng đã biết cô gái tên Hạnh và… một cái nốt ruồi lớn ngay dưới chân mày bên trái. Có lẽ, biết cũng để cho vui thế thôi. Cù lần như tôi nước gì!
Chiều Chủ Nhật, tôi từ Chi khu ra cái quán nhỏ ở góc chợ thuê mấy cuốn truyện chưởng của Kim Dung về đọc cho qua ngày đoạn tháng. Cô chủ tên Dung, nghe đâu cũng là “hoa có chủ” của một anh K27. Đang lúi húi tìm thứ tự mấy cuốn Thiên Long Bát Bộ, bỗng nghe một giọng nữ phát ra từ cửa quán:
– Chị Dung, tìm cho em cuốn “Áo tiểu thư” của Duyên Anh. Răng chị…
Câu nói ngắt ngang nửa chừng khi cô gái nhận ra có bóng người trai lạ đứng trong góc. Tôi nhìn ra. Đó chính là cô gái có cái nốt ruồi trên chân mày ngày qua…
Sau này, khi quen nhau, Hạnh vẫn hay nói đó là duyên kỳ ngộ. Em bảo nhà em không ai thích lính. Cũng đúng thôi, nhà thơ Hữu Loan đã viết “Lấy chồng chiến binh, mấy người đi trở lại” cơ mà. Tôi trêu “Ghét của nào trời trao của ấy!”. Em cúi mặt buồn buồn.
Hạnh là con gái duy nhất của gia đình. Tên em đơn giản là Trần thị Hạnh. Em kể Ba chết từ lúc mới sinh, mẹ ở vậy nuôi em khôn lớn. Em vừa tốt nghiệp lớp cán sự y tế ngoài Đà Nẵng, về quê thăm mẹ trong lúc chờ bổ nhiệm. Tôi thở phào. Em ra trường sớm mấy tháng, có khi lũ bạn công tác đợt 1 đã dzớt mất rồi.
Tôi trở lại thăm má Hạnh mấy lần theo lời anh chàng Sanh cố vấn “attack at home” nhưng lần nào cũng gặp một nét mặt lạnh lùng. Má Hạnh tránh tiếp xúc hoặc chỉ trả lời nhát gừng những câu hỏi chân tình của tôi. Nhìn bà, tôi liên tưởng đến nhân vật nữ Anh Cô căm thù đàn ông vì bị Đoàn Nam Đế phụ tình trong cuốn Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. Có lần tôi còn thấy mắt Hạnh hoe hoe đỏ như vừa mới khóc xong.
Chúng tôi đành biến quán cho thuê truyện của cô Dung thành nơi hò hẹn. Giai đoạn đầu chẳng biết nói chuyện chi, cứ đem mấy cuốn truyện ra mà tán về các nhân vật hoặc chuyện nắng mưa… Ấy thế mà vắng nhau một ngày đã thấy nhơ nhớ…
Nhưng có lẽ tình yêu làm cho người ta thông minh ra. Nghe bạn bè, một chiều Thứ Bảy tôi bạo gan rủ nàng đi chơi nhà thờ Trà Kiệu. Mượn chiếc Honda Dame của cô Dung, tôi chở Hạnh lên đường.
Nhà thờ núi Trà Kiệu nằm trên ngọn đồi Bửu Châu cao khoảng 60 mét thuộc xã Xuyên Kiệu. Đó là một ngôi nhà thờ cổ được trùng tu từ thế kỷ XIX. Đứng ở tháp chuông, chúng tôi nhìn xuống và ngợp trong màu xanh biêng biếc của cây lá dọc theo hai bờ của dòng sông Thu Bồn thơ mộng. Hàng me tây cổ thụ che rợp mát khu vực nhà thờ và gần đó là một ngôi trường tiểu học do các nữ tu đảm trách. Những chiếc áo choàng đen trong bóng chiều tạo nên một vẻ đẹp nao lòng. Hạnh cúi đầu kính cẩn khi đi qua những bức tượng tái hiện mười hai chặng đường Thánh giá của Chúa Giê Su. Nàng chỉ cái giếng nước mà người xứ đạo phong là giếng nước Thánh. Ai chân tình cầu nguyện khi uống sẽ toại nguyện với ước vọng của mình. Hai đứa cùng ngậm ngụm nước mát. Hạnh nhắm hai mắt lại giây lâu. Tôi hỏi em cầu nguyện điều chi? Em thầm thì “Bí mật!”.
Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên một triền bắp ven sông. Hạnh nói với tôi cách đây khoảng 25 km là Thánh địa Mỹ Sơn, Vương quốc của triều đại Champa cũ. Tiếc rằng chúng tôi không đến được vì lý do mất an ninh. Ánh nắng chiều trải trên dòng sông Thu, gió mơn man như quạt hầu. Dòm kỹ cái nốt ruồi của em coi thật ngộ. Nó hồng hồng và nổi như một hạt đậu cuối chân mày. Em đỏ mặt xấu hổ khi thấy tôi cứ dòm chằm chằm vô mặt. Tôi kể cho em nghe về làng quê của mình, về tuổi nhỏ chăn trâu cắt cỏ, về góc vườn mỗi khi giận mạ thường ra ngồi gục mặt rồi ngủ thiếp lúc nào không hay… Hạnh chủ động cầm tay tôi bóp chặt. Tôi nghe rõ hơi thở dồn dập của em. Và thằng con trai 22 tuổi lần đầu tiên biết thế nào là câu hát của Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên “Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt…”
Chúng tôi đã… thật sự yêu nhau từ giây phút đó. Có Hạnh tôi bớt cù lần hơn. Nhóm “Lờ quờ” mất cái đầu tàu. Hai thằng bạn bắt tôi bao một chầu Mì Quảng ở Ngã ba Nam Phước trước khi từ giã nhóm. Chuyện nhỏ đối với một gã trẻ tuổi đang say hương vị tình yêu!
Chúng tôi đã có những ngày thật thú vị. Hạnh đưa tôi đi Hội An thăm lại ngôi trường Trần Quý Cáp thời nàng học trung học. Hai đứa lên Chùa Cầu nhìn tượng con chó và con khỉ, lang thang trên con đường nhỏ dọc sông Hoài ngắm những ngôi nhà lợp ngói âm dương. Tôi biết thêm món ăn độc đáo xứ Hội như cao lầu, bánh tráng đập Cẩm Nam, chén chè “chí mà phù” của ông Tàu già trên phố Nguyễn Thái Học. Có một điều làm tôi cảm động, dù hơi ngượng, là thỉnh thoảng khi trả tiền, cô chủ quán bảo “cô bạn anh trả trước rồi”.
Mỗi lần như thế, Hạnh bảo – Để mặc em, cho nó vui.
Nhưng có lẽ Hạnh thích nhất là khi tôi tặng nàng tập thơ “Thuở làm thơ yêu em” của Trần Dạ Từ . Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ cái màu cà phê sữa của cuốn sách. Những câu thơ tài hoa như dành riêng cho chúng tôi trong bài thơ Nụ hôn đầu:
“Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ bông…”
Tôi ghi dòng chữ trên đầu trang: “Để em đọc khi nhớ anh”. Hạnh bảo:
– Đây sẽ là cuốn sách gối đầu giường của em. Mãi mãi.
Khi yêu Hạnh, thật sự tôi đã nghĩ đến một mái ấm gia đình. Lăng nhăng không phải là bản chất của thằng tôi cù lần. Chúng tôi còn hơn hai năm để nuôi dưỡng tình yêu. Nhưng thật khó khăn khi tiếp cận với má nàng để bà hiểu tôi là người tử tế.
Suy nghĩ lâu lắm, Hạnh cắn môi bảo tôi:
- Thứ Bảy này mình lên nhờ bà Ngoại. Ngoại thương em lắm. Mà anh mặc đồ civil nhen.
Bà ngoại Hạnh ở Gò Nổi thuộc quận Điện Bàn. Bà trên 70 nhưng còn khỏe mạnh, giọng nói sang sảng. Trên bàn thờ có hình một ông mặc phẩm phục triều đình trông rất quắc thước. Hạnh bảo tôi đó là ông Cố, một trong Ngũ phụng tề phi của xứ Quảng Nam, niềm hãnh diện của dòng họ ngoại.
Bà đón tiếp cô cháu gái thật vồ vập: – Cha mày. Mấy lâu đi mô mất mặt không thấy thăm bà?
Niềm vui của bà lan qua cả bạn của cháu. Bà sai đứa cháu nhỏ múc nước lấy khăn cho tôi rửa mặt, leo dừa hái trái “hai đứa” uống, ra vườn thử xem có trái mít nào trở tiếng thì chặt xuống cho “tụi nó” ăn… Đúng là một bà ngoại xứ Quảng nồng hậu mà chơn chất.
Bửa cơm trưa thật ngon miệng với thịt luộc chấm mắm cái, rau cải nấu canh cá rô thêm chút gừng. Tôi nằm trên bộ ngựa bằng gõ thiu thiu ngủ, hai bà cháu rì rầm to nhỏ ở phòng trong.
Chúng tôi ra về khi chiều đà nhạt nắng. Cái nhìn của bà cụ đối với tôi chăm chú hơn nhưng không còn vẻ ồn ào như ban sáng. Hạnh phụng phịu hờn dỗi và không chịu mang trái mít về làm quà như dự định. Trên đường nàng im lặng nép sát người vào lưng tôi. Một linh cảm bất an trong lòng. Gia đình nàng chê tôi điểm nào???