|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà thơ Du Tử Lê
Không cần phải nhấn mạnh, chúng ta đều biết dòng VH miền Nam 20 năm, là một dòng văn học cực kỳ phong phú, nhiều mầu sắc. Dù tuổi thọ của dòng VH đó, chỉ kéo dài vỏn vẹn có 20 năm.
- Đứng về phương diện nhân sự tức những cá nhân làm thành dòng VH này, tôi trộm nghĩ, có thể tạm chia thành 3 thành phần chính:
- Thành phần thứ nhất: Những nhà văn, nhà thơ gốc miền Bắc
- Thành phần thứ hai: Những nhà văn nhà thơ gốc miền Trung. (Và)
- Thành phần thứ ba: Những nhà văn, nhà thơ Nam Bộ.
- Vì miền Nam phải đương đầu với cuộc chiến được khởi xướng bởi nhà cầm quyền CS Hà Nội, nên miền Nam sớm có chế độ quân dịch hay động viên.
Do đó, trừ một thiểu số thanh niên được hoãn dịch vì lý do gia cảnh hay nghề nghiệp thì, trong hạn tuổi quân dịch, ai cũng phải nhập ngũ. Và nhà văn, nhà thơ không ngoại lệ.
Tuy cùng ở trong quân đội, nhưng về phương diện sinh hoạt văn chương, chúng ta lại có hai thành phần:
a- Thành phần thứ nhất, là những người cầm bút tiếp tục theo đuổi con đường văn chương mà họ đã, hay muốn chọn.
Ở thành phần này, tôi có thể nêu thí dụ như các nhà thơ, nhà văn Tạ Tỵ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Thảo Trường, Mai Trung Tĩnh, Lê Tất Điều, Tô Thùy Yên, v.v.…
b- Thành phần thứ hai, là những người cầm bút chọn viết về đời sống quân ngũ.
Ở thành phần này, tôi nhớ tới các nhà văn quân đội như Văn Quang, Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam (nổi tiếng với bút ký chiến trường). Tôi cũng nhớ tới nhà thơ Tường Linh, nổi tiếng với những bài thơ viết về người lính v.v…
Nhưng, dù thuộc thành phần nào thì không một ai, tôi lập lại, không một ai bị bắt buộc hoặc, nhận được chỉ thị phải viết theo nhu cầu này, đòi hỏi kia từ thượng cấp hoặc, cao hơn là từ bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH.
1- Tính chất TỰ DO đó, theo tôi là khía cạnh đặc thù thứ nhất, của dòng VH miền Nam 20 năm.
2- Khía cạnh đặc thù thứ 2, của 20 năm VH miền Nam, theo tôi là TÍNH NHÂN BẢN.
Dù cho các nhà văn nhà thơ miền Nam, trong khoảng thời gian vừa kể, có đề cập gần xa hay, trực tiếp tới cuộc chiến tranh tàn khốc do chế độ CS Miền Bắc chủ xướng thì, cũng không một độc giả nào tìm thấy trong tác phẩm văn chương của họ tính chất hận thù, sắt máu, như trong các sáng tác văn chương của miền Bắc.
- Khía cạnh này, nổi bật tới độ, giáo sư Neil L. Jamieson, hiện đang giảng dạy tại đại học George Mason, Virginia, đã phải công nhận và, ngợi ca qua cuốn phê bình văn học nhan đề “Understanding Vietnam” của ông. Cuốn này được xuất bản bởi liên đại học Berkeley, Los Angeles và London ấn hành, bìa mỏng đầu tiên in năm 1995.
- Cũng vậy, trong cuốn “La Rage d’être Vietnamien” của ký giả nổi tiếng thiên tả Jean Claude Pomonti, do nhà Seuil de Paris, Paris, XB năm 1975, cũng đã xiển dương khía cạnh đó với dẫn chứng thơ của miền Nam.
3- Khía cạnh đặc thù thứ 3, của 20 năm VH miền Nam là NHỮNG CÁI “TÔI” TRẦN TRỤI. Hay, những cái “Tôi” khác hẳn với cái “Tôi” có trong văn chương tiền chiến.
- Cụ thể hơn, theo ghi nhận của tôi thì, trong văn chương tiền chiến, cái “Tôi” xấu xa, dị hợm, khuyết tật hoặc, không mấy đẹp đẽ nếu có hiện ra trong văn bản thì, chúng cũng được thác vào các nhân vật A,B,C, D nào đó. Và, rất hiếm thấy trong thi ca.
- Nhưng, với 20 năm VH miền Nam thì ngược lại. Người đọc thấy được rất nhiều cái “Tôi”, dị hợm, xấu xí, hèn nhát, bậm trợn… được phơi bày một cách trực tiếp từ các tác giả, chứ không thể hiện qua một hình nhân thế mạng nào hết.
Thậm chí, đời sống tình cảm riêng tư của tác giả, cũng được phơi bày trong thi ca. Điển hình như nhà thơ Nhã Ca, trong bài “Tiếng chuông Thiên Mụ”.
Bài thơ phản ảnh một sự việc phải nói là can đảm, tạo bạo hiếm thấy.
Đó là khi bà ghi lại việc bà trốn nhà đi theo tiếng gọi tình yêu – (tình yêu của nhà thơ Trần Dạ Từ) năm bà 19 tuổi.
Bài thơ khá dài, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn ngắn, như sau:
“Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông dịu dàng lay tôi dậy
Tiếng chuông đến chỉ một mình tôi thấy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền
Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố…”
4- Khía cạnh đặc thù thứ 4, của 20 năm VH miền Nam, theo tôi là sự tự phát nhà Xuất Bản (XB), do các nhà văn, nhà thơ chủ trương.
Tôi không nói chế độ miền Nam có một nền tự do rộng rãi, lý tưởng. Nhưng chí ít về phương diện XB thì miền Nam, 20 năm được ghi nhận là dễ dàng, thoải mái không thua gì những quốc gia tự do dân chủ khác trên thế giới.
Hồi đó, không kể những nhà xuất bản lớn, chuyên nghiệp thì, để XB một tác phẩm văn chương, các tác giả chỉ phải nộp bản thảo cho phòng Kiểm Duyệt tại Bộ Thông Tin, với một tờ khai rất sơ sài là tên họ, địa chỉ người xin XB. Khoảng 2 hoặc 3 tuần, tác giả trở lại, sẽ nhận lại bản thảo và, giấy phép XB.
Điều đáng nói nữa là dù bạn XB bao nhiêu đầu sách trong năm thì, cũng không ai bị sở thuế tìm kiếm, gây khó dễ.
Về những nhà văn, nhà thơ điều hành những nhà xuất bản kiểu “tự phát” như vậy, có thể kể tới nhà Thời Mới của Võ Phiến, Kẻ Sĩ của Tô Thùy Yên, Thương Yêu của Nhã Ca-Trần Dạ Từ, Hoàng Đông Phương của Nguyễn Thị Hoàng, Đại Ngã của Nguyên Vũ, Kinh Thi của Hoàng Như An (một trong những bút hiệu của giáo sư Như Hạnh / Nguyễn Tự Cường sau này) v.v…
5- Khía cạnh đặc thù thứ 5 của 20 năm VH miền Nam, theo tôi là:
- Song song với dòng chảy văn chương bởi những cây bút miền Bắc và miền Trung thì, VH miền Nam 20 năm, còn có dòng chảy của văn chương “Nam Bộ” với những tác giả miền Nam - - Viết bằng ngôn ngữ đặc thù miền Nam.
- Tiêu biểu như nhà văn Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Phổ cập hơn, có thể kể tới những tác giả khác, như Bà Tùng Long, Ngọc Linh, Sĩ Trung, Trọng Nguyên, Dương Hà, Dương Trữ La, Hoài Điệp Tử, v.v…
6- Khía cạnh đặc thù thứ 6, trong ghi nhận của tôi là sự xuất hiện rực rỡ, tươi tốt của hàng ngũ những nhà văn nữ.
Tất nhiên, ở giai đoạn văn chương Tiền Chiến, cũng có sự góp mặt của một số tác giả nữ. Nhưng họ không chiếm lĩnh những vị trí trung tâm, chói lọi của ánh sáng tiền trường.
Có thể kể các tác giả như Tương Phố, Anh Thơ, Vân Đài, Thụy An, Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, v.v…
Trong khi các nhà văn nữ của 20 năm VH miền Nam thì ngược lại. Họ hiện diện như những điểm đứng nổi bật.
Có thể kể Trùng Dương, Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị NgH, v.v…
Ở lãnh vực này, có một đặc điểm mà tôi chú ý đó là:
- Trong khi đa số các nhà văn nữ thời đó, tuồng có xu hướng chung là: đem tính dục vào tác phẩm thì, Nhã Ca lại là người duy nhất, nói “không” với tính dục trong các tác phẩm của mình.
Những tưởng điều đó sẽ khiến số lượng độc giả đọc bà bị sút giảm. Nhưng thực tế không hề - - Nếu không muốn nói là ngược lại.
7- Khía cạnh đặc thù thứ 7, theo tôi là sự THAY ĐỔI CÁCH VIẾT.
Người có công lớn trong nỗ lực thay đổi cách viết là nhà văn Mai Thảo. Khi ông biến những động từ, tính từ thành những danh từ, làm chủ từ cho một mệnh đề.
- Thí dụ… khi ông viết “Ném một cái nhìn về thành phố…” Thì, “Ném” là động từ, nhưng được ông dùng như một danh từ, làm chủ từ cho câu văn của mình.
- Cũng với Mai Thảo, một câu văn có thể dài lướt thướt hoặc chỉ có một, hai chữ. Hình thức này, trước đó, người ta chỉ thấy trong thi ca mà, không có trong văn xuôi.
- Sự đổi mới cách viết của Mai Thảo, sau đấy, được nhiều người hưởng ứng.
8- Khía cạnh đặc thù thứ 8, của 20 năm VH miền Nam, theo tôi là sự tiếp nhận, KHAI TRIỂN MỌI TRÀO LƯU VĂN CHƯƠNG THẾ GIỚI.
Nói rõ hơn, bên cạnh các tác giả tiếp tục con đường văn chương tiền chiến, dựa trên các yếu tính như cốt truyện , khai thác tâm lý nhân vật, nghiêng về mặt tối tăm của xã hội thì, đa số còn lại, lại hăm hở tìm kiếm, thử nghiệm những trào lưu văn chương mới: Từ thơ Tự Do tới những xu hướng văn chương khác, như Hiện Sinh, Triết Học, Phân Tâm Học, Tiểu thuyết Mới (Nouveau-Roman) v.v…
9- Khía cạnh đặc thù thứ 9 và, cuối cùng theo tôi, là khía cạnh ĐẢ KÍCH TÔN GIÁO.
Đây là một lãnh vực cực kỳ nhậy cảm. Thời tiền chiến, các nhà văn, nhà thơ của chúng ta, rất ít chạm tới. Nhưng với 20 năm VH miền Nam thì vòng phấn cấm kỵ này cũng đã bị vượt qua.
Người mạnh mẽ, quyết liệt xóa đi cái “taboo” đó, là nhà văn Thế Nguyên với tác phẩm “Hồi Chuông Tắt Lửa” - - Và, những truyện dịch do nhà Trình Bày của ông ấn hành như cuốn “Chúa đã khước từ” của nhà văn Đại Hàn Richard Kim v.v… Tuy tác giả Richard Kim không phải là nhà văn VN, nhưng sách của ông sau khi được chuyển dịch sang Việt ngữ, thì nó đã chảy chung trong dòng văn chương miền Nam.
Để kết thúc bài nói chuyện của tôi hôm nay, ở đây, tôi xin nhấn mạnh:
- Có thể 20 năm VH miền Nam còn nhiều điểm đặc thù khác nữa, nhưng tự biết khả năng giới hạn của mình, nên bài nói chuyện của tôi, có tựa đề là “Vài khía cạnh đặc thù của 20 năm VH miền Nam”, mà thôi.
Dám mong quý vị và, các bạn lượng thứ cho mọi sơ sót không thể tránh khỏi của tôi.
Trân trọng cám ơn quý vị và, các bạn.
- Những nẻo đường văn chương, hội họa... quyết liệt của Võ Công Liêm Du Tử Lê Nhận định
- Nguyễn Vũ và, một ca khúc trở thành kinh-nguyện-riêng Du Tử Lê Nhận định
- Trần Hoài Thư, Ngọn Cờ Đầu: Nổ Lực Xiển Dương 20 Năm Văn Chương Miền Nam Du Tử Lê Nhận định
- Nhà văn Tuấn Huy Du Tử Lê Nhận định
- Phỏng Vấn Nhà Văn Nguyễn Tường Thiết Du Tử Lê Phỏng vấn
- Họa Sĩ Phạm Tăng Du Tử Lê Nhận định
- Những Mảng Tối Cuối Đời nhạc Sĩ Tài Hoa Thanh Bình! Du Tử Lê Nhận định
- Lộ trình thơ, nhạc Trần Duy Đức Du Tử Lê Nhận định
- Nhà văn Nguyễn Viện, sống, như một mũi tên Du Tử Lê Nhận định
- Lê Lạc Giao - Tính điềm tĩnh trong cõi-giới truyện ngắn Du Tử Lê Nhận định
• Vị Trí Của Sáng Tạo Trong Sự Phát Triển Văn Học Miền Nam Sau 1954 (Trương Vũ)
• Ý thức nữ quyền trong tác phẩm của các nhà văn nữ từ 1954-1975 (Trịnh Thanh Thuỷ)
• Vài Khía Cạnh Đặc Thù Của 20 Năm Văn Học Miền Nam (Du Tử Lê)
• 40 Năm Văn Học Miền Nam Thất Thủ: Thế hệ Hậu Chiến khước từ Thân phận mồ côi (Trangđài Glassey)
• Văn Học Miền Nam 54-75 'chỉ 20 năm, nhưng vô cùng quan trọng' (Kalynh Ngô)
• Số phận của văn học miền Nam sau 1975 (Nguyễn Hưng Quốc)
• Đặng Thơ Thơ Nói Về 20 Năm Văn Học Miền Nam (1954-1975) (Đặng Thơ Thơ)
• Ðặt lại giá trị văn học miền Nam trong lịch sử văn học Việt Nam (Phạm Phú Minh)
• Văn chương miền Nam thời chiến qua mắt nhìn của những bạn trẻ (Trần Thị Nguyệt Mai)
• Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975 (Nguyễn Vy Khanh)
Tính “văn học” trong văn học Miền Nam (Trần Doãn Nho)
Hội Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam (Phần tiếp theo vào ngày 7/12/14) (Đặng Phú Phong)
Hội Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam
(Đặng Phú Phong)
Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam (1954 – 1975): Phẩm Tính và Ý Nghĩa (Bùi Vĩnh Phúc)
Trang Chuyên Ðề: Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam 1954-1975 (diendantheky.net)
Ai bất hạnh hơn ai? (Nguyễn Hưng Quốc)
Về nhận định của nhà phê bình Vương Trí Nhàn (Bùi Vĩnh Phúc)
Nhân một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 (Vương Trí Nhàn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
• Trò chuyện với dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
• Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (Bùi Vĩnh Phúc)
• Bùi Giáng (1926 - 1998) (Bùi Vĩnh Phúc)
• Ôn ra đi để lại nụ cười (Trần Trung Đạo)
• Tuệ Sỹ: Tuổi Trẻ Vạn Hạnh (Viên Linh)
• Tâm Thức Phật Việt: Sức Mạnh Từ Tam Tạng Thánh Điển Đến Lịch Sử Dân Tộc (Nguyên Siêu)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |