|
Bùi Giáng(17.12.1926 - 7.10.1998) | Du Tử Lê(.0.1942 - 7.10.2019) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang (1) chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh (2) trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh (3).
Gần xa nô nức yến anh (4),
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm (5).
Ngổn ngang gò đống (6) kéo lên.
Thoi vàng vó (7) rắc tro tiền giấy (8) bay.
Những chú thích sau đây trích từ sách "Truyện Kiều - Nguyễn Du" của Nguyễn Thạch Giang, NXB Ðại Học Và Giáo Dục Chuyên Nghiệp, Hà Nội - 1988. (Bài trên trích từ câu 39 đến 50 của Truyện Kiều)
(1) Thiều quang: ánh sáng đẹp, tức nói ánh sáng ngày xuân. Ý cả câu: Chín chục ánh sáng ngày xuân, mà nay đã ngoài sáu mươi, tức là đã qua tháng giêng, tháng hai và đã bước sang tháng ba.
(2) Thanh Minh: tiết vào đầu tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, trong trẻo, người ta đi tảo mộ, tức là đi viếng và quét tước sửa sang lại phần mộ của người thân.
(3) Ðạp thanh: Giẫm lên cỏ xanh. Tiết Thanh Minh, đi chơi xuân ở chốn đồng nội, giẫm lên cỏ xanh nên gọi là đạp thanh.
(4) Yến Anh: Chim én, chim oanh về mùa xuân thường ríu rít bay từng đàn; đây ví cảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân.
(5) Ngựa xe như nước: ngựa xe qua lại nối tiếp nhau, hết lớp này đến lớp khác như nước chảy. Áo quần như nêm: Diễn tả người đi lại đông đúc, chật như nêm cối.
(6) Gò đống: Ðây chỉ chung những mồ mả, cái to, cái nhỏ.
(7) Vàng vó: Thứ đồ mã, giả những thoi vàng hình khối chữ nhật dùng trong việc cúng đưa ma hoặc lễ mộ.
(8) Tiền giấy: Chỉ loại hàng mã gồm những tờ giấy có in hình đồng tiền kẽm hay đồng tiền thời trước, dùng trong việc cúng tế ... xong lễ đốt đi cho người ở âm phủ dùng.
Bóng hồng (1) nhác thấy (2) nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai (3).
Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Rốn ngồi (4) chẳng tiện dứt về chỉn khôn (5).
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa người còn nghé theo (6).
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Những chú thích sau đây trích từ sách "Truyện Kiều - Nguyễn Du" của Nguyễn Thạch Giang, NXB Ðại Học Và Giáo Dục Chuyên Nghiệp, Hà Nội - 1988. (Bài trên trích từ câu 161 đến 170 của Truyện Kiều)
(1) Bóng hồng: Chỉ bóng người con gái.
(2) Nhác thấy: thoáng thấy.
(3) Ý cả câu: Hai chị em Thúy Kiều mỗi người có một vẻ đẹp mặn mà riêng, người thì như lan mùa xuân (xuân lan), người như cúc mùa thu (thu cúc).
(4) Rốn ngồi: Ngồi nán lại.
(5) Chỉn khôn: Vẫn là khó.
(6) Nghé theo: Nghiêng mắt mà trông theo, đưa mắt nhìn theo.
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
Ðồng thanh cùng gởi: "Nào là phu nhân?"
Hai bên mười vị tướng quân,
Ðặt gươm cởi giáp trước sân khấu đầu.
Cung nga thể nữ nối sau,
Rằng: "Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy".
Sẵn sàng phượng liễn loan nghi (1),
Hoa quan (2) chấp chới hà y (3) rỡ ràng.
Dựng cờ nổi trống lên đường,
Trúc tơ nổi trước kiệu vàng kéo sau.
Hỏa bài tiền lộ ruổi mau,
Nam đình (4) nghe động trống chầu đại doanh.
Kéo cờ lũy phát súng thành,
Từ công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài,
Rỡ mình (5) là vẻ cân đai (6),
Hãy còn hàm én mày ngài (7), như xưa.
TỪ HẢI ANH HÙNG
Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô (8) tung hoành!
Bó thân về với triều đình,
Hàng thần (9) lơ láo phận mình ra đâu?
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau (10),
Vào luồn ra cúi công hầu (11) mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy,
Sức này đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời quấy nước (12) mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
Các chú thích trong phần này trích từ sách "Nguyễn Du Và Truyện Kiều" của Nguyễn Thạch Giang, NXB ÐHVGDCN, Hà Nội - 1988.
(1) Phượng Liễn Loan Nghi: Kiệu và các đồ nghi trượng có chạm thêu hình chim loan, chim phượng.
(2) Hoa Quan: Mũ có đính vàng nhọc, kim cương đẹp đẽ.
(3) Hà Y: Áo đỏ tía như sắc ráng trời.
(4) Nam Ðình: Chỉ triều đình phương Nam do Từ Hải lập ra.
(5) Rỡ Mình: Mình mang mũ áo rực rỡ.
(6) Cân Ðai: Cái mạng bịt tóc (chỉ cái mũ) và cái đai vòng quanh áo của lễ phục vua quan phong kiến. Ý cả câu: Vẻ cân đai của lễ phục đế vương làm người Từ Hải rực rỡ hẳn lên.
(7) Râu Hùm Hàm Én Mày Ngài: Do các chữ "Yến Hạm, Hổ Ðầu, Ngọa Tàm My": Hàm rộng như chim én, đầu hổ, lông mày to đậm cong như con tằm, là tướng người anh hùng.
(8) Bể Sở Sông Ngô: Sở, Ngô là tên hai nước thời Xuân Thu nay thuộc miền Ðông Nam Trung Quốc, là địa bàn hoạt động của Từ Hải.
(9) Hàng Thần: Kẻ bầy tôi nguyên đã nổi dậy chống bọn thống trị nay ra thú chịu hàng phục.
(10) Áo Xiêm: Chỉ y phục nói chung. Xiêm là áo mặc che nửa thân đàng trước theo y phục cổ. Ý cả câu: Vì xiêm áo, tức là vì quan tước mà mình bị ràng buộc vào trong khuôn khổ, không được tự do tung hoành.
(11) Công Hầu: Tước công và tước hầu, chỉ người có quan tước cao ở triều đình.
(12) Chọc Trời Quấy Nước: Ý nói tự ý hành động, không sợ uy quyền nào hết và làm náo động mọi nơi.
- Trang thơ Nguyễn Du Nguyễn Du Thơ
- Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan ngâm) Nguyễn Du Thơ
- Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm) Nguyễn Du Thơ
- Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm) Nguyễn Du Thơ
• "Văn Chiêu Hồn" thuộc về lối văn bình dân (Hoài Thanh)
• Bài Diễn Thuyết Bằng Quốc Văn (Phạm Quỳnh)
• Tại sao Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc? (Phạm Công Thiện)
• Nguyễn Du Đi Sứ Trên Quê Hương Lý Bạch (Phạm Trọng Chánh)
• Một bài Văn tế của một nhân vật tiểu thuyết cho một nhân vật tiểu thuyết... (Nguyễn Văn Sâm)
• Thăng Long (Nguyễn Du) (Huỳnh Sanh Thông)
• Vọng Phu Thạch (Nguyễn Du) (Huỳnh Sanh Thông)
• Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
• Đọc lại Nguyễn Du (Vũ Hoàng Chương)
• Cỏ cây trong Truyện Kiều (T. V. Phê)
• Cái ghen của Hoạn Thư (T. V. Phê)
• Ngày giờ nàng Kiều bị bắt (T. V. Phê)
• Cảnh nghèo khó và bệnh tật của thi hào Nguyễn Du (T. V. Phê)
• Cù lao chín chữ (T. V. Phê)
• Mối tình của nữ sĩ Hồ Xuân Hương với Nguyễn Du (T. V. Phê)
• Bảng Niên Biểu Nguyễn Du (Trần Ngọc Ninh)
• Nguyễn Du (1765 - 1820) (Phạm Thế Ngũ)
Thơ Trong Truyện Kiều (Trần Ngọc Ninh)
Đọc Lại Truyện Kiều Để Yêu Thêm Tiếng Việt (Đàm Trung Pháp)
Tủ sách Talawas:
Chân dung Nguyễn Du (Nhiều tác giả)
Nguyễn Du, nghệ thuật như một chiến thắng (Đặng Tiến)
Tạp chí VĂN, số đặc biệt tưởng niệm Nguyễn Du
• Trang thơ Nguyễn Du (Nguyễn Du)
• Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan ngâm) (Nguyễn Du)
• Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm) (Nguyễn Du)
• Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm) (Nguyễn Du)
• Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc (Vương Trùng Dương)
• Trịnh Y Thư: Những mối tình trong “Đường về thủy phủ” (Phan Tấn Hải)
• Đọc sách “Sài Gòn không phải ngày hôm qua” của Phúc Tiến (Nguyễn Văn Tuấn)
• Đọc “Cùng nhau đất trời” của Khánh Trường (Song Thao)
• Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Đỗ Anh Hoa)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |