1. Head_
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Trần Mộng Tú, Một Dòng Thơ Tuôn Chảy Ngoài Quê Hương (Liễu Trương) Ad-21 Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)

      29-11-2025 | VĂN HỌC

      Trần Mộng Tú, Một Dòng Thơ Tuôn Chảy Ngoài Quê Hương

        • LIỄU TRƯƠNG
      Share File.php Share File
          

       


          Nhà thơ Trần Mộng Tú

      Thơ Trần Mộng Tú là một hiện tượng trên thi đàn hải ngoại, hiện tượng là vì dòng thơ này trải dài suốt 50 năm của nền văn học hải ngoại, không hề ngưng nghỉ ; một dòng thơ khi thì thổ lộ tâm tình của một người nữ giàu tình cảm, khi thì hướng về ngoại giới để vui buồn theo mệnh nước nổi trôi.


      Ngôn ngữ thơ của Trần Mộng Tú không uyên bác, không cầu kỳ, kiểu cách. Lời thơ của Trần Mộng Tú giản dị, hồn nhiên như thỏ thẻ tâm tình bên tai người đọc, kể lể buồn vui của cuộc đời.


      Điều gì đã khiến một người nữ sáng tạo một dòng thơ qua những thử thách cũng như những cái đẹp của cuộc đời trong hơn nửa thế kỷ ?


      Câu hỏi này đưa chúng ta ngược dòng thời gian, trở về thời thơ ấu của tác giả. Những bài học thuộc lòng trong lớp cho cô bé Trần Mộng Tú cảm thấy cái đẹp của thơ văn, và sự say mê khởi đầu từ đó, rồi càng lớn những bài thơ học thuộc lòng càng nhiều hơn. Xảy ra một sự kiện giúp cô bé đi xa vào thế giới văn chương. Khi đất nước vừa chia đôi, gia đình Trần Mộng Tú di cư vào Nam. Trong khi còn ở tạm dưới những căn lều dành cho người di cư, thì hành lý của gia đình bị thất lạc, thay vào đó là một bao tải đầy sách, không rõ của ai. Người sung sướng nhất là cô bé Trần Mộng Tú 11 tuổi, tình cờ được hưởng cả một kho tàng sách. Và cứ thế nỗi say mê văn chương lớn dần với tuổi đời, cho đến một ngày kia cô gái bắt đầu làm thơ. Nguồn sáng tạo đã thành hình.


      Sống trong thời chiến, con người dễ gặp nguy cơ, hoạn nạn. Đó là trường hợp của Trần Mộng Tú. Đang tuổi thanh xuân, lòng mơ ước một tương lai tươi đẹp, thì chiến tranh tràn đến, cướp mạng sống của người yêu, người chồng, chấm dứt một cuộc hôn nhân ba tháng. Trần Mộng Tú đau xót, chỉ biết tìm đến chữ nghĩa để than khóc, để nói lên tình yêu và nỗi thương tiếc chồng :

      Không bao giờ em quên

      đường ba trăm cây số

      em đi nhận xác anh

      với trái tim thống khổ…


      Không bao giờ em quên

      chiếc quan tài màu vàng

      lá cờ ba sọc đỏ

      anh nằm im lìm đó

      chẳng một lời sau cùng. (Huyệt Mộ)


      Em tặng anh hoa hồng

      Chôn trong lòng huyệt mới

      Em tặng anh áo cưới

      Phủ trên nấm mồ xanh (Quà Tặng Trong Chiến Tranh 7/1969)

      Trần Mộng Tú cho khắc trên mộ chồng, nơi nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi - thời còn nghĩa trang này - bốn câu thơ như sau :


      Áo cưới chàng may còn mùi vải

      rượu hồng thiếp uống còn cay môi

      xa nhau một phút ngàn thu vắng

      nỗi buồn này biết làm sao nguôi

      Trần Mộng Tú không nhớ đã làm những bài thơ đầu tiên vào lúc nào, nhưng chắc chắn những bài thơ đến với độc giả khởi đầu từ năm 1969, năm xảy ra sự mất mát lớn trong đời.


      Kể từ đó, nguồn sáng tạo của Trần Mộng Tú ngày càng dồi dào hơn, phong phú hơn, để ngày nay trở thành một dòng thơ tuôn chảy không ngừng.


      I Ba chủ đề trong thơ Trần Mộng Tú


      Có thể nói, chiến tranh là điểm xuất phát nguồn thơ của một tâm hồn vốn đã say mê văn chương, và nguồn thơ đó được hình thành, mở rộng quanh ba chủ đề : mất mát, cô đơn trên xứ người và tình yêu muôn thuở.


      Những mất mát lớn trong đời


      Mất mát tình yêu, hôn nhân, nhưng dư âm của chia ly và nỗi nhớ nhung vẫn còn đó :

      Tôi xa người nắng buồn trên vai

      Môi tôi mùi thuốc còn thơm hơi

      Người xa tôi một dòng sông trắng

      Dẫy núi bên kia có ngậm ngùi …


      Tôi xa người như xa quê hương

      Những dấu thân yêu mất cuối đường

      Người nhặt hộ tôi hoa dĩ vãng

      Lau giùm dòng lệ ở vết thương


      Người xa tôi gió cũng lặng thinh

      Tôi rung nỗi nhớ ở quanh mình

      Người như suối chảy qua rừng vắng

      Cả một dòng sông đứng lại chờ. (Cả Một Dòng Sông Đứng Lại Chờ)

      Bên cạnh mất mát riêng tư, có một mất mát vô cùng lớn lao : mất mát quê hương :

      Khi tôi đi một mặt trời vừa rụng

      Một kinh thành vừa sụp đổ sau lưng

      Một quê hương vừa thở nhịp cuối cùng

      Một dân tộc vừa ly khai dân tộc

      (Pendleton, California, 21/4/1975)

      ………………………………………………


      Hãy tưởng tượng ra em

      ở nơi không định tới

      em tủi như chim khuyên

      khóc trong lồng son mới (tháng 7/1975)

      Tình hoài hương làm nặng lòng kẻ ra đi :

      Mỗi độ xuân về tôi nhớ lắm

      những ngày xuân cũ trên quê hương

      nhớ người tình cũ, ngôi chùa cũ

      hoa mẫu đơn nở đỏ bên tường

      ………………………………………………..


      Quê hương xa

      thật là xa

      dòng sông

      ngọn núi

      chỉ là chiêm bao.

      ……………………………………


      Đốm nhang cháy đỏ như quầng mắt

      khói có bay về tận cố hương

       

      vườn người, tôi chiết cành xuân thắm

      nhớ quê vết cắt trượt xuống hồn.

      Trong ký ức của kẻ ra đi, tháng Tư được khắc sâu như một dấu hiệu của mất mát, của chia ly :

      Em nằm im lặng nghe đêm thở

      Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm

      Anh ạ, em nghe tháng Tư khóc

      Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen

      ……………………………………


      Anh ạ, tháng Tư sương mỏng lắm

      Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê

      Hay sương thành lệ tra vào mắt

      Mờ khuất trong em mọi nẽo về.

      Cô đơn trên xứ người


      Ngay lúc mới đặt chân đến xứ người đã có những ngỡ ngàng buốt lạnh, khiến tâm hồn cảm thấy lạc lõng :

      Khi tôi đến… Ôi ! một tôi đổi khác

      Áo khăn người nghe lạ tủi trên thân

      Chăn chiếu người đắp mãi vẫn lạnh căm

      Ly nước ngọt trên môi nghe muối mặn

      Và lạc lõng giữa những người khác chủng tộc :

      Hãy tưởng tượng ra em

      ở một căn nhà lạ

      mình em một ngôn ngữ

      mình em một màu da

      mình em một màu mắt

      mình em một lệ nhoà. (tháng 7/1975)


      Khi cuộc sống đã ổn định trên xứ người, gia đình đầm ấm, vẫn có một nỗi cô đơn ray rứt tâm hồn, không chia sẻ được với ai :


      Chúng tôi ở Bellevue

      hai người một căn nhà hạnh phúc

      hai người cùng chung một đất nước

      chỉ có một tôi hay buồn

      chỉ có một tôi ôm nỗi nhớ quê hương.

      ………………………………………


      đêm đêm

      khi ngọn đèn đã tắt

      chàng ngủ say cùng những

      vị á thánh và những anh hùng

      nàng thức dậy

      ôm trái tim cô đơn

      của người tạm trú

      ………………………………………….


      Em cô đơn

      như một thân cây

      còn sót lại sau đám cháy rừng

      chung quanh em

      những tàn tro lạnh ngắt… (Cháy Rừng)

      Tình yêu muôn thuở


      Trong ngôn ngữ tình yêu của Trần Mộng Tú chỉ có người nữ lên tiếng với người yêu. Nhìn từ phía người nữ thì tình yêu muôn mặt, muôn màu, đủ cung bậc.


      Trước hết, tình yêu không bao giờ chết, một trong những bài thơ có tính biểu tượng mang tựa đề : Xuân thơm như mật, nói về người nữ bị chôn vùi dưới tuyết, được người yêu đến gạt tuyết và đưa ra ngoài để cùng nhau hưởng một mùa xuân thần tiên.


      Tình yêu không có định nghĩa, hãy cứ yêu, không cần tìm hiểu.

      Tình yêu được ví với một chùm nho nguyên vẹn :

      Có người nói với em tình yêu giống như một chùm nho

      mỗi lần yêu là mỗi lần mất đi một trái…


      Khi anh đến

      anh có mang cho em

      một chùm nho mới

      một chùm nho chưa mất một trái nào. (Hợp Lưu số 87)

      Tình yêu đắm đuối :

      Anh ôm em

      bằng nguyên cả vòng tay

      cho em nếm

      mùa xuân trên môi

      nhìn cánh chim bay

      trong mắt

      ngực anh loang mùi rượu

      hoàng hoa

      cho em thở hơi xuân chất ngất (Khu Vườn Mùa Xuân)

      Tình yêu vội vàng vì thời gian quá ngắn ngủi :

      Hãy yêu nhau ngay bây giờ

      đừng đợi ngày mai

      vuốt tóc trắng rồi ước gì ta trẻ lại … Yêu đi anh !

      nụ hôn em còn nồng

      ly rượu còn đầy

      mặt trời còn đó… (Rượu Còn Đầy, Mặt Trời Còn Đó)

      Tình yêu không đem lại thỏa mãn :

      Đêm qua trở gối nghe mưa

      Tình như chăn hẹp không vừa ấm tôi

      Co hoài vẫn hụt một nơi

      Tôi kéo vuông chiếu buông rơi đóa sầu (Mưa Seattle)

      Tình yêu mong manh :

      Ôi tình yêu như giọt sương buổi sáng

      làm sao em giữ được đến buổi chiều (Thời Gian Và Tình Yêu)

      Tình yêu đem đến mãn nguyện :

      Hồn em giờ rất lạ

      Một chiếc bình đầy anh (Hồn Em Giờ Rất Lạ)

      Tình yêu không có tuổi :

      Anh sẽ đến buổi chiều hay buổi sáng

      Ngày hôm nay hay ở thế kỷ sau

      Em vẫn đợi vì tình yêu không tuổi

      Người yêu ơi ! Anh đến tự hướng nào. (Thời Gian Và Tình Yêu)

      Tình yêu trong thơ Trần Mộng Tú như những nốt nhạc có đủ cung bậc trong một tấu khúc.


      II Những nét đẹp trong thơ Trần Mộng Tú


      Thông thường một nhà thơ hướng sự sáng tạo cái đẹp theo mỹ cảm của mình. Trong trường hợp Trần Mộng Tú, mỹ cảm tạo nên hai hình ảnh : hình ảnh một thế giới được thi vị hóa và hình ảnh bất biến của một dòng sông.


      Trần Mộng Tú dùng một phương pháp tu từ gọi là nhân cách hóa để thi vị hóa thế giới quanh mình. Theo đó, thiên nhiên, thảo mộc, bốn mùa, đồ vật, v.v… trở nên gần gũi, thân mật với con người :

      Cũng có lúc tôi hôn lên vách núi

      Đứng lặng yên nghe tiếng núi thầm thì

      …………………………………………


      Biển căng ngực và núi rền tiếng thở

      …………………………………………..

      Núi cúi đầu khoanh tay

      ngắm đóa sen vừa nở (Cõi Ngoài)

      …………………………………………..

      Những chiếc lá cháy xém

      cúi nhìn dĩ vãng (Cháy Rừng)

      …………………………………………..

      hoa tỷ muội cười

      ròn rã trên vai em

      mặt trời hồng hôn lên

      cả hai bên má

      …………………………………….

      Tuyết đứng ngoài hàng rào

      ngó qua khung cửa sổ

      có tiếng khúc khích cười

      của những thanh củi nhỏ (Mùa Đông)

      ……………………………………………..

      Nắng trẻ hơn tuổi em nhiều

      chạy đuổi nhau qua triền dốc

      Những con ong kêu vang vang

      mùa hè cười trong mái tóc (Mùa Hạ)

      ………………………………………………

      Mùa thu đang gõ cửa

      Mở đi anh… cánh rừng. (Thu Khúc)

      ……………………………………………….

      Những đôi giầy ngước mắt nhìn chờ đợi

      Thầm thì bảo nhau chắc đến phiên mình (Chuyện Của Đôi Giầy)

      Hình ảnh thứ hai do mỹ cảm của tác giả tạo nên là hình ảnh một dòng sông. Đôi khi tác giả dùng lối ẩn dụ để gợi lên hình ảnh này :

      Em hý hoái làm thơ trên xa lộ

      Dòng sông xe ngừng chẩy giữa buổi chiều…


      Em hý hoáy làm thơ trên xa lộ

      Dòng sông xe đọng lại giữa hoàng hôn (Thơ Trên Xa Lộ)

      Đọc thơ Trần Mộng Tú ta thường thấy lấp lánh một dòng sông :

      Khi tôi đi cả dòng sông đứng lặng

      Những vai cầu khuỵu xuống buổi tiễn đưa

      ……………………………………………

      Con sông chẩy cả một thuyền quá khứ

      Trong mắt em ngơ ngác đám lục bình (Ngọn Nến Muộn Màng)

      ……………………………………….

      Em ngước mặt uống ngụm trăng thơm ngát

      Dòng sông đêm bên dưới vỗ chân quen

      Anh cúi xuống uống giọt sương trong mắt

      Đất rùng mình chim đập cánh bay lên (Sông Đêm)

      ……………………………………………

      Tháng sáu mở ra một nhánh sông

      Con trăng mùa Hạ chìm dưới đáy

      Em thả xuống nước cọng cỏ xanh

      Dòng sông trăm năm chỉ là mộng…


      Tháng sáu duỗi mình vào mùa Hạ

      Gió thổi hoa lau bay mang mang

      Anh theo dòng sông trôi với tình

      Em đứng giữa bờ trăng ngơ ngác (Trăng Và Tháng Sáu)

      …………………………………….

      Người như suối chảy qua rừng vắng

      Cả một dòng sông đứng lại chờ. (Cả Một Dòng Sông Đứng Lại Chờ)

      ……………………………………

      Tôi ở nơi này cách Việt Nam gần mười ngàn dặm

      sao đứng trước cửa nhà vẫn thấy quê hương

      thấy trăm con sông nhỏ

      sông Nhụê, sông Cầu, sông Thương, sông Đáy

      sông Cửu Long, sông Hậu, sông Tiền

      những con sông dài, ngắn, nông, sâu

      những con sông xanh biếc

      nước đã đổi sang mầu

      nước của ô nhiễm như lòng người ô nhiễm (Cuối Năm Tự Truyện)

      Ngần ấy con sông cũng đủ nói lên mỹ cảm của nhà thơ Trần Mộng Tú. Nhưng sao lại là dòng sông và tại sao hình ảnh đó lại dai dẳng đến thế và trở nên một ám ảnh ?


      Nếu giải thích theo phân tâm học thì đây là việc làm của vô thức. Freud cho biết con người không có chủ quyền mà chính vô thức điều khiển tất cả. Vô thức hướng tâm hồn của nhà thơ về hình ảnh một con sông. Vậy hình ảnh con sông ngự trị trong thơ Trần Mộng Tú hẵn phải có nhiều ý nghĩa.


      Gaston Bachelard (1884-1962), nhà triết học Pháp về khoa học, đã từng nghiên cứu tương quan giữa trí tưởng tượng vật chất của con người với những yếu tố trong thiên nhiên như : nước, lửa, đất, không khí, để phân loại các trí tưởng tượng. Thơ Trần Mộng Tú nói về dòng sông tức nói về nước, và theo Bahelard, nước biểu hiện cho người nữ : vậy thơ Trần Mộng Tú là tiếng nói của người nữ và là một tiếng nói đầy nữ tính.


      Nước trong thơ Trần Mộng Tú, ngoài nước của dòng sông, còn có nước mưa, mưa nhiều trong cảm xúc của nhà thơ, và nước mắt vì người nữ này rất giàu nước mắt.


      Một ý nghĩa khác của dòng sông : dòng sông có giá trị biểu tượng cho thời gian, nước sông trôi đi như thời gian trôi qua. Trong thơ Trần Mộng Tú có nhiều khắc khoải về thời gian, về tuổi già.


      Cuối cùng, chúng ta có thể cùng Trần Mộng Tú ca ngợi cái đẹp của thơ qua ống kính vạn hoa :

      Chỉ có thơ là ống kính vạn hoa

      ta lắc soi từ thời thơ dại

      cho đến tuổi già

      vẫn vạn hoa còn đó

      trong cái không mầu chứa cả muôn mầu

      trong vô ngôn vẽ ra ngàn cảnh giới (Nỗi Không)

      Liễu Trương

      Tác giả gởi

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Trần Mộng Tú, Một Dòng Thơ Tuôn Chảy Ngoài Quê Hương Liễu Trương Nhận định

      - Khu Rừng Lau Của Doãn Quốc Sỹ Cuộc Hành Trình Đi Tìm Tự Do Liễu Trương Nhận định

      - Nụ Cười Của Nàng Joconde Liễu Trương Nhận định

      - Hiện tượng sách dịch ở miền Nam thời 54-75 Liễu Trương Nhận định

      - Truyện "Bóng Đè" của Đỗ Hoàng Diệu một huyễn tưởng của vô thức Liễu Trương Nhận định

      - Mười Nhà Văn Miền Nam Đến Với Độc Giả Pháp Liễu Trương Giới thiệu

      - Sứ Mạng Của Người Cầm Bút Theo Linh Mục Thanh Lãng Liễu Trương Nhận định

      - Đi Vào Giấc Mơ Thổ Với Trần Vũ Liễu Trương Nhận định

      - Võ Phiến Một Đời Cầm Bút Liễu Trương Nhận định

      - Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Ở Pháp Liễu Trương Khảo luận

    3. Bài viết về nhà thơ Trần Mộng Tú (Học Xá) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Bài viết về Trần Mộng Tú

       
      Cùng Tác Giả (Link-1)

      Trần Mộng Tú, Một Dòng Thơ Tuôn Chảy Ngoài Quê Hương (Liễu Trương)

      Trần Mộng Tú (Học Xá)

      Những Ngọn Nến Trong Thơ Trần Mộng Tú (Lê Hữu)

      Người Nữ Và Trái Tim Đông Phương Trong Thế Giới Của Trần Mộng Tú (Bùi Vĩnh Phúc)

      Đọc một bài thơ mới của Trần Mộng Tú (Nguyễn Xuân Hoàng)

      Trần Mộng Tú, thơ và, niềm hãnh diện thi ca Việt (nguoi-viet.com)

      Trần Mộng Tú trong vườn hoa vàng (Luân Hoán)

      Nhà văn Trần Mộng Tú (Huỳnh Ái Tông)

      Trần Mộng Tú và tuyển tập “Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm1969-2009” (Mặc Lâm)

       

      Tác phẩm của Trần Mộng Tú

       
      Cùng Tác Giả (Link-2)

      Đưa em xuống phố (Trần Mộng Tú)

      Mưa Saigon, mưa Seattle (Trần Mộng Tú)

      Linh Bảo - Tác Giả Tầu Ngựa Cũ Qua Đời

      (Trần Mộng Tú)

      Bệnh Viện và Nghĩa Trang (Trần Mộng Tú)

      Chiếc Ghế Trống (Để tưởng nhớ Trần Văn Nam) (Trần Mộng Tú)

      Trần Mộng Tú blog

      Bài viết của Trần Mộng Tú  (damau.org)

       

      Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Trần Mộng Tú, Một Dòng Thơ Tuôn Chảy Ngoài Quê Hương (Liễu Trương)

      Trang Thơ (Đặng Xuân Xuyến)

      MH. Hoài Linh Phương: Giọt Nước Mài Trên Đá (Phương Triều)

      Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Lệ Uyên (Trần Doãn Nho)

      Vài Suy Nghĩ Về Hồi Ký Của Xuân Vũ (Đỗ Trường)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học Miền Nam (Học Xá)
  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)