Nói tới văn hóa là nói tới dân tộc mà nó là biểu thức
của nếp sống đặc thù. Lịch sử thế giới đã cho ta thấy
rằng: Cuối cùng thì mọi đế quốc cũng sụp đổ, chuyện đại
đồng không tưởng bất thành, tinh thần dân tộc ở khắp
nơi vẫn là động cơ thúc đẩy mọi sinh hoạt quốc tế. Từ đó
chủ nghĩa quốc gia cũng mỗi ngày một chỉnh đốn, tô bồi
rạng rỡ hơn. Bởi một chân lý xã hội đơn giản là: Dân tộc
là một kích thước xã hội ưu thuận nhất cho việc thành
lập một quốc gia, thể hiện một nền văn hóa và xếp đặt
mọi mặt của cuộc sống vật chất cũng như tinh thần.
Tìm hiểu một nền văn hóa cho đến nơi đến chốn,
người ta không thể chỉ dừng bước ở cái bề ngoài trong
cách ăn mặc, nói năng, đi đứng... hay trước các công
trình kiến trúc như điện đài thành quách cùng các công trình văn học và nghệ thuật khác. Chiều sâu của văn hóa
Việt Nam nằm trong tâm trí của mọi nguời Việt Nam qua
mọi thời đại lịch sử của họ. Cái phần sâu xa này, người ta gọi bằng nhiều danh từ khác nhau là thần trí, hồn tính,
tâm địa hoặc bằng những nhóm danh từ tinh thần dân
tộc, cá tính dân tộc. Và cái sâu thẳm của cá tính dân tộc
này, Tây phương gọi là vô thức dân tộc.
Mỗi dân tộc có một cá tính mà người dân nước khác
dễ nhận biết trong nếp sống hàng ngày và đường lối cư
xử của dân tộc đó. Cá tính này có phần thiên bẩm thuộc
bản chất chung của nhân loại, nhưng phần chính yếu là
do sự tác động của những điều kiện địa lý lịch sử và xã
hội riêng, rồi theo lẽ di truyền mà được nối dõi từ đời này
qua đời nọ thành truyền thống dân tộc. Theo đường lối
nhận thức này, để tìm hiểu cá tính của dân tộc ta, trước
hết xin ghi nhận những nét đại cương về địa lý, lịch sử
và xã hội Việt Nam.
A. Điều Kiện Tác Động
1. Nước Việt Nam ta là một nước tương đối nhỏ bé.
Diện tích, sau những nỗ lực phát triển liên tục của tổ tiên
ta đã dừng ở con số khiêm nhường là 300.000 cây số
vuông. Trái lại, dân cư với mức sinh sản mạnh, vào
những thập kỷ gần đây, đã đạt tới một con số lớn lao là
72 triệu người. Đất hẹp dân đông, đó cũng là một điều
kiện bất thuận lợi cho sự phát triển chung.
Dân tộc ta một phần là những người từ cao nguyên đổ
xuống đồng bằng ra biển cả, từ trung tâm lục địa châu Á
theo lưu vực con sông Hồng Hà và con sông Cửu Long kéo
tới phối hợp với một phần khác là những người từ quần
đảo Nam Dương theo sóng biển và gió Nam đổ bô lên. Xa
xôi hơn nữa, về nguồn gốc của dân tộc ta có thần thoại
con Rồng cháu Tiên". Nói bằng hình ảnh: Dân tộc Việt
Nam là một lớp người chiến sĩ và hiệp khách, sau thời
gian tung hoành, đã rút khỏi chiến trường, khước từ
giang hồ, về nghỉ ngơi ở cái giải đồng bằng nhỏ hẹp, kẹp
giữa đại dương và đông nam lục địa châu Á. Nơi đây, khí
hậu nhiệt đới và chế độ gió mùa, ảnh hưởng của núi rừng
xen lẫn biển cả, khắc khổ pha hòa với dịu dàng đã ru
người chiến sĩ trong một giấc mộng chập chờn, huyền ảo.
Cho đến nay, nền kinh tế của dân tộc Việt Nam vẫn
là nền kinh tế nông nghiệp thô sơ nghèo nàn. Người dân
quê phải làm ăn đầu tắt mặt tối, một nắng hai sương mới
kiếm được miếng cơm manh áo. Huyền thoại "ông ba bị"
và "con ngoáo ộp" đã nói lên cái thử thách đắng cay về
kinh tế mà dân ta hằng chịu đựng.
2. Trên dây, ta vừa nói rằng nguồn gốc của dân tộc
Việt Nam là những người từ cổ xưa và từ nhiều nơi tụ lại
trên giải đồng bằng nghèo, bên bờ Thái Bình Dương.
Nhưng rồi những con người đó vẫn chưa thực sự tìm được
sự nghỉ ngơi trên mảnh đất bội bạc. Lịch sở của họ là
lịch sử của những nỗ lực không ngùng để trường tồn và
phát triển. Trường tồn trong công cuộc chống kẻ thù lăm
le thôn tính đất đai của mình,- ba lần từ Bắc phương
xuống, một lần từ Tây phương sang. Phát triển trong
công cuộc tiến về phương Nam tìm phương sinh sống.
Trước khi tiếp xúc với Tây phương, Việt Nam đã là
sân khấu giao động của hai nền văn minh kỳ cựu là văn
minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ, với ba luồng tư
tưởng Đông phương đem tới là Khổng, Phật, Lão. Kịp khi
gặp gỡ Tây phương, văn hóa Việt Nam lại phải giải quyết
sự va chạm giữa nền văn minh đạo đức tinh thần Đông
phương với nền văn minh cơ khí vật chất Tây phương.
Vào thời đại ngày nay, người ta còn nhận biết vị trí chiến
lược của Việt Nam trên trường quốc tế là cái ngã tư quốc
tế từ Âu sang Á, một đồn cảng từ biển Nam xâm nhập lục
địa. Đó là một niềm vui nhưng đồng thời cũng là một mối
lo cho dân tộc.
3. Vài ghi nhận về xã hội Việt Nam- Nét căn bản cần
nhắc nhở ngay là: Xã hội Việt Nam là một xã hội nông
nghiệp. Với tinh thần hiếu học, trọng ngăn nắp trật tự,
xã hội nông nghiệp đó cho mãi tới thời kỳ gần đây, vẫn
đề xướng một thứ bậc xã hội từ trên xuống là sĩ-nông-công-thương.
Xã hội Việt Nam sống tập hợp thành những đơn vị
hành chính nhỏ là xóm làng, khoảng dăm ba trăm người
quây quần sau lũy tre xanh kiên cố. Xóm làng đã trở
thành một thứ "tổ quốc thứ hai" thường được yêu thương
và trọng vọng hơn cả tổ quốc lớn. Tuy nhiên, trong những
trường hợp trọng đại hay ngặt nghèo của lịch sử thì xóm
làng cũng như gia đình cũng mờ xóa đi một cách dễ dàng.
Mặt khác, làng mạc Việt Nam lại hòa mình vào thiên
nhiên bao quanh là ruộng đồng, đồi núi, sông ngòi. Như
thế, cuộc sống của người dân quê Việt Nam đã diễn ra
trọn vẹn giữa lòng thiên nhiên khiến cho thị thành đô
hội chỉ còn là những ngoại lệ hiếm hoi. Cho nên người kẻ
chợ vẫn hướng về chốn thôn quê cũng là lẽ bình thường vậy.
B. Những Nét Cơ Bản
Những điều kiện địa lý, lịch sử và xã hội gợi lại trên
đây giúp ta giải thích những nét lớn trong cá tính của
dân tộc Việt Nam mà ta có thể suy nghiệm sau đây:
1.Một đời sống nội tâm phong phú. Trước hết, ta
phải công nhận rằng người Viết Nam có một đời sống nội
tâm rất phong phú mà biểu lộ là nét mặt trầm ngâm, cử
chỉ chậm chạm, nói năng nhỏ nhẹ, đi đứng từ tốn.
Cuộc sống nội tâm phong phú này chính là do sự tác
động của nền kinh tế cơ cực, của dòng lịch sử gian lao của
dân tộc ta. Mệt mỏi và thất vọng về bên ngoài, con người
phải quay vào nội tâm của mình để tìm ở đó một nơi
nương tựa, một chỗ ẩn náu, một phương dệt mộng giải
thoát, lên Niết bàn, lạc vào Tiên cảnh, tới miền Thượng
giới. Cũng do cuộc sống nội tâm phức tạp này mà nơi mỗi
người Việt Nam có hai con người khác nhau: một con
người giao tế xã hội trọng nghi thức, ước lệ cùng phong
tục tập quán, và một con người riêng tư tìm đến những
giá trị siêu nhiên, những thăng hoa cao cả, khó có trong
cuộc đời.
Cái thái độ trầm lặng, hiền hòa, quân bình không cần
phải cố gắng và chẳng lúc nào có tính cách giả tạo đó,
người Tây phương phải công nhận là một thái độ tự
nhiên mà thành hiền triết (une attitude de vie
naturellement philosophique). Đây cũng là sự theo đuổi
của một thứ triết lý "thiên nhân tương dữ", con người với
thiên nhiên nối kết với nhau thành một mối, của dân tộc
ta vậy. Và cũng bởi nội tâm phong phú đó mà hầu hết các
người Việt Nam đều có khuynh hướng tự nhiên về văn
học và nghệ thuật vốn đòi hỏi một cảm quan sâu sắc và
bén nhạy.
Tất nhiên cái nếp sống nặng về nội tâm này cũng có
cái sở đoản của nó: Quay vào trong, con người dễ lãng
quên ngoại giới, giảm hạ những kiến thức khoa học về
thiên nhiên, kém tiến thủ trong những công trình chinh
phục môi sinh, cải thiện đời sống vật chất. May thay nếp
sống nội tâm của đa số chúng ta không đi tới chỗ cực
đoan để trở thành tiêu cực.
2.Một bản chất giầu tình cảm. Đời sống nội tâm tự
nó đã bao gồm tình cảm bên cạnh nhiều chức vụ tâm lý
khác. Tuy nhiên xét riêng tình cảm, ta sẽ có nhiều điều
đặc biệt để nói về cá tính của dân tộc ta. Hầu hết, những
quan hệ xã hội của người Việt Nam,- với đồng bào hay
với người nước khác,- được khởi sự bằng tình cảm để
phát huy bằng nghĩa vụ, tình và nghĩa gắn liền với nhau
khiến quan hệ được trọn vẹn và lâu bền. Nhờ đó, người ta
xử sự với nhau bằng tình (tức tình cảm) hơn là bằng lý
(tức lý trí), đúng như một câu trong truyện Kiều của
Nguyễn Du:
Bề ngoài là lý song trong là tình.
Và chính vì chữ "tình" buộc lấy chỗ "nghĩa" mà Thúy
Kiều hỏi vọng Thúy Vân xem đã giúp mình trả nghĩa
Kim Trọng chưa:
Tình sâu mong trả nghĩa dầy,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
Có những mối tình cảm sâu xa và vững bền đến độ
khiến người ta giữ thái độ câm lặng có khi suốt cả cuộc
đời. Tình không nói ra bằng lời mà bằng xử sự, bằng nghĩa.
Khác với nhiều người Tây phương, người Việt Nam
chủ trương "ơn đền, oán trả". Đó cũng là một nền công lý
thế nhân vậy. Những kẻ lợi dụng tình cảm của người
khác, những kẻ vong ân bội nghĩa bị người ta lên án một
cách nghiêm khắc. Do đó, để bù đắp lại chuyện ơn phải
đền, nên mới có chuyện oán phải trả. Nếu bảo "oán
không cần trả" thì đặt ra trừng phạt làm gì? Hơn thế, bắt
chuyện với một kẻ tội lỗi ngập trời lại còn ngoan cố chạy
tội và không quên tìm cách hại mình, đó là điều không
thể nào quan niệm được.
Ca ngợi giá trị của tình yêu, các triết gia ngày nay
thường nói: Tình yêu là đường lối chân xác và phong phú
nhất để con người nhận thức một đối tượng. Ta có thương
yêu một người nào thì người đó mới mở toang bản ngã
của mình ra cho ta nhận biết.
3.Một đầu óc tổng hợp và dung nạp. Sớm nhận biết
những cực đoan trong vũ trụ và nhân sinh, kinh qua bao
thử thách của một nền địa lý khắc khổ, và của một lịch
sử gian truân, dân tộc Việt Nam đã tạo được một đường
lối kinh nghiệm để giải quyết những xung khắc, những
mâu thuẫn giữa các sự vật. Với Tây phương, phân tích thì
dễ, tổng hợp mới khó. Và họ đã phải công nhận rằng:
Phải nhờ có những tổng hợp tài tình, con người mới tạo
nên được những công trình thật sự và vĩ đại.
Cũng xin lưu ý rằng trong khoa học nhân văn, đầu óc
tổng hợp không phải là thái độ chiết trung tầm thường
và đơn giản chỉ gặt hái được những kết quả nghèo nàn và
khả nghi. Tổng hợp là tạo nên một thực thể mới khởi đi
từ những dữ kiện tách biệt để cuối cùng thì những dữ
kiện này không còn hiện diện nguyên hình trong kết quả nữa.
Bây giờ ta hãy xét xem tiền nhân đã đem lại gì cho
con người Việt Nam và cá tính dân tộc. Xin kể ra một số
những thành quả của khả năng trí tuệ mẫn tiệp này:
- Ta đã nói ở trên kia là người xưa tổng hợp hai nền
văn minh Trung Hoa và Ấn Độ như thế nào. Tiền nhân
đã hòa hợp tam giáo Đông phương để theo đuổi, luôn một
lúc hoặc theo thứ tự trước sau, triết lý nhập thế hành đạo
và triết lý xuất thế hưởng nhàn trong khi vẫn mở rộng
tấm lòng cưu mang những kẻ hoạn nạn. Đó chính là nhờ
trí và tâm hợp nhất, tinh thần dung nạp đi song song với
tinh thần chống mưu đồng hóa của tha nhân.
- Trong phong cách sống, người Việt Nam có những
thái độ tưởng chừng mâu thuẫn (nhất là đối với người
Tây phương). Một mặt người Việt Nam vừa mơ mộng,
lãng mạn như đã nói trên kia, nhưng mặt khác lại thực
tế đến chi li, phũ phàng. Nguời Việt Nam chắt chiu từng
miếng cơm manh áo, giữ gìn đồng tiền bát gạo, nhìn vào
bất luận một sự vật nào ở ngoại giới cũng nghĩ ngay tới
một phương tiện mưu sinh, một cơ may tiến thủ. Có khác
chi bảo: Người Việt Nam vừa thực tế lại vừa lý tưởng.
- Sống với hiện tại nhưng người Việt Nam vẫn nhớ
tới quá khứ một cách thành khẩn và hướng về tương lai
với tính phòng xa, cẩn trọng. Học giả Phạm Quỳnh có nói
tới đầu óc "phụng tổ tiên và tôn cổ điển" trong nền luân
lý cổ của dân tộc Việt Nam. Tương tự thế, người Việt
Nam khéo biết nối kết cái nhất thời với cái trường cửu,
cái cao với cái thấp, lý trí với tình cảm, kỷ nhân với tha
nhân, lòng ẩn nhẫn chịu đựng với ý chí quật cường... kể
ra không hết
4.Một lòng yêu nước mãnh liệt phối hợp với tình gia
đình mặn nồng. Trong đời sống giầu tình cảm của người
Việt Nam, có một tình cảm vượt trội hẳn lên, đã trải qua
nhiều thử thách để mỗi ngày một thêm vững mạnh, đó là
lòng yêu nước. Trước hết, đây cũng là một điều thuận hợp
với chân lý phổ thông trong nhân loại: đất đai càng cằn
cỗi bao nhiêu, thiên nhiên càng bạc đãi bao nhiêu, lịch sử
càng gian khổ bao nhiêu thì người con dân lại càng tha
thiết với quê hương bấy nhiêu. Riêng về nước ta, lịch sử
còn ghi rất nhiều những trang oai hùng, hiển hách trong
hơn một lần tranh đấu để phục hồi và giữ gìn nền tự chủ
cho mình. Điển hình xưa kia là câu nói của Trần Bình
Trọng: "Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất
Bắc". Và thời nay, câu nói của Nguyễn Thái Học: "Không
thành công cũng thành nhân".
Lòng ái quốc mãnh liệt trên tuy chỉ biểu hiện từng lúc
trong lịch sử quốc gia nhưng luôn luôn không ngừng được
bồi đắp bằng một thứ tình gia đình thâm sâu không thể
nào tả xiết. Để rồi hai tình yêu vĩ đại đó phối hợp với
nhau, dắt díu nhau để gia đình đồng nghĩa với quê hương
và đất nước như trong những câu Kiều của Nguyễn Du:
Đoái thương muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
Xót thay thông cỗi, huyên già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
Tiếc thay tình gia đình đó, lòng yêu nước đó, người
cộng sản đã lợi dụng đến cùng cho chiêu bài đế quốc của
ngoại nhân
*
Để kết thúc, xin mở rộng vấn đề. Cá tính của một dân
tộc nào thì cũng có kẻ khen người chê, không phải là
không có lý. Nhưng xin nói ngay rằng đó là một thực thể
lịch sử mà con người không có thể phủ nhận và phải ít
nhiều chấp nhận và tôn trọng.
Với các bạn trẻ hải ngoại, xin nói thêm rằng: Văn hóa
cũng như cá tính của dân tộc không phải là những gì bất
biến. Đất đai sẽ còn được nuôi dưỡng, lịch sử sẽ còn mở
nhiều trang, con người cũng do đó mà đổi thay theo
hướng chân thiện mỹ chung của nhân loại. Những sở
đoản trong cá tính dân tộc chắc sẽ phôi pha trong suy
ngẫm và cố gắng hành động của tất cả mọi người chúng
ta hôm nay và mai hậu. Nhưng có điều chắc chắn là
những sở trường, những ý nghĩ những tình cảm đẹp lành
trong truyền thống dân tộc là điều vĩnh cửu mà ta phải
nhìn cho đúng để mà bảo tồn. Bằng không, sẽ chẳng còn
có dân tộc Việt Nam trên cõi đời này nữa.