1. Head_
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Đợi một chuyến phà (Cao Hoàng) Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

      18-9-2025 | TRUYỆN

      Đợi một chuyến phà (Seattle, xanh mãi ngàn năm)

        CAO HOÀNG
      Share File.php Share File
          

       

      Cao Hoàng



      Cao Hoàng là một nghệ sĩ tài hoa, một nhà văn, nhà thơ, từng là chủ biên tạp chí Chỗ Chúng Ta. Ông còn là ca, nhạc sĩ với nhiều sáng tác và chơi đàn guitar classic rất điêu luyện. Ông còn sản xuất những cây đàn guitar chuyên biệt cho khách hàng.


      Cao Hoàng còn là một họa sĩ với hai cuộc triển lãm tranh sơn dầu năm tám lăm tại đại học GRCC Awburn WA và năm hai ngàn lẻ một tại Seattle Center, cũng là người vẽ bảng “Little Saigon” được gắn tại bốn góc phố ranh giới lịch sử của khu thương mại người Việt trong thành phố Seattle.


      “Lá Phong”, tên một sân khấu nhạc thính phòng được Cao Hoàng thành lập tại tư gia với phong cách rất nghệ sĩ, thu hút nhiều bạn hữu văn nghệ ở Seattle và khắp chốn.


      Người đọc dễ nhận ra nơi Cao Hoàng một phong cách riêng trong văn chương, từ những bài thơ cách tân đến những câu chuyện hư cấu lạ lùng. Cao Hoàng từng là thầy dậy Văn, Nhạc và Họa tại trường trung học Nguyễn Huệ Tuy Hoà Phú Yên trước 1975, đã có nhiều kỷ niệm sâu đậm giữa thầy trò, khiến một số đông học trò cũ vẫn thường xuyên rủ nhau đến Seattle thăm người thầy cũ.

      *


      Chuyến phà sang đảo

      1.


      Lúc ấy tôi nhìn qua cửa sổ, con đường cong cong từ phòng 102 – nơi tôi đang ngồi đợi giờ học – dẫn đến cafeteria có nắng vàng rực rỡ chiếu trên những cây magnolia và những cây dogwood đang trổ bông khoe hương sắc bên cạnh những cây phong Nhật Bản yểu điệu la đà.


      Tiến nói:

      - Hôm nọ đang thụt bi-da ở trên lầu cafeteria tạo thấy mày với một thằng Mỹ trắng đang vần một cái bàn bự cho buổi trình diễn văn nghệ chiều thứ sáu; vẫn còn làm ở đó à?


      - Không, quit rồi, bây giờ làm ở library, khỏe lắm, chỉ có check-in, check-out rồi xếp sách lên kệ. Làm việc chung với mấy thằng khổng lồ chịu đời gì thấu. Tao là thằng Việt Nam có thước tấc đầy đủ, nhưng nó cao hơn tao một cái đầu và nặng gấp hai.


      - Tao cũng đang muốn quit cái job mailman. Trường gì lớn khủng khiếp đi phát thư là muốn rã cặp giò! Đổi job ở chỗ nào vậy?


      - Thì tới chỗ nào người ta cần thì xin, xin được rồi thì lên con Barbara.


      - Là đứa nào vậy?


      - Con tóc vàng mắt to thô lố ở phòng financial-aid. Mày biết nó nói gì không? Nó nói mấy thằng Á Châu chỉ thích ngồi một chỗ câu cá câu mực thôi cần phải exercise ở cafeteria mới tốt. Tao nói là tao đã exercise bốn năm trên chiến trường với mấy thằng VC và thêm bốn năm nữa trong re-education camp chưa đủ hay sao? Nó nhăn răng cười bảo khi nào câu được cá cho nó mấy con.


      Lúc ấy cái cửa kính thật lớn của cafeteria hé mở, một người lách ra đi về phía chúng tôi. Đó là June. Em tháng Sáu hôm nay mặc blue jean áo xanh lá mạ, lưng đeo backpack. Bộ đồ giản dị, hơi cứng của lũ sinh viên đi học hàng ngày không làm mất đi vẻ dịu dàng uyển chuyển của cô. Mái tóc đen mun bay trong gió, đôi mắt long lanh như cười, chẳng thể đoán được cô đang nghĩ gì, chỉ biết rằng tôi chết sững khi nhìn thấy cô sáng nay đi trong nắng xôn xao, dưới những cánh hoa dogwood tuyệt vời.


      Cửa lớp mở ra, June tươi tắn bước vào. Những thằng con trai nhao nhao mời chào. Tôi có cảm tưởng cô như một ngọn đèn thật sáng đang soi vào chỗ tối tăm. Bao giờ cô cũng chọn chỗ gần hoặc ngay đằng trước chúng tôi. Có phải cô thích nghe hai đứa tôi thì thầm với nhau bằng tiếng Việt chăng? Ô mà điều đó không chắc, có thể do tình cờ hay bản tánh rất tự nhiên của cô. June bỏ cái túi đeo sau lưng xuống, nghiêng người quay nhìn chúng tôi, một tay vén tóc, điệu bộ rất kiểu cách, nhưng chào một câu khá bình dân:


      - Hi, you guys.


      Hai đứa chúng tôi cùng nói rất ăn nhịp, để ghẹo cô:

      - Hi, June. How are you?


      Và Tiến nhanh nhẹn bồi thêm một câu:

      - Lúc nào June cũng đẹp như tháng Sáu ở Tây Bắc.


      June cười nhẹ, nói thank you rồi ngồi xuống với đồ nghề lỉnh kỉnh của lớp vẽ.


      Tiến huých tay tôi:

      - Nói gì với em đi chứ, thằng cù lần. Hôm nay là buổi học cuối cùng rồi, cuối giờ là liên hoan mãn khóa. Biết có bao giờ gặp lại em không?


      - Mày đừng mơ tưởng hão huyền con ạ! Hè này tao với mày không đi hái trái cây thì cũng đi cắt cỏ.


      - Xin lỗi ạ! Tao mới kiếm được cái job thơm lắm: đi làm full time cho một nông trại, thế nào cũng vớ được một em yêu kiều.


      - “Người yêu dấu hỡi Clementine” hả? Tao thì chỉ muốn “ta về ra tắm ao ta”, ừ cứ đi đi, còn tao sẽ vác đàn ra chợ đường Pike quậy cho nó đã tay. Nhớ nghe, thứ bảy anh đây sẽ ra chợ đánh đàn kiếm bạc lẻ đó.


      - Lại mấy cái restaurant tại Ý hay tụi Mễ mà chơi có hơn không?


      - Tao không thích đánh đàn trong khi họ ăn. Tuyệt đối không chịu đàn cái kiểu đó.


      2.


      Giáo sư đã vào lớp, đi cùng với ông là một người đàn bà đứng tuổi. Tất cả ghế ngồi của chúng tôi đều xếp vòng tròn quanh một cái bục thấp. Giáo sư giới thiệu người đầu bà ấy là người mẫu và bà ta lặng lẽ cởi tất cả những cái gì mặc trên người. Bà ngồi trên một cái ghế đẩu, bao nhiêu đèn halogen đều chiếu vào bà. Bộ ngực người mẫu chảy xệ một cách thảm hại, những nếp nhăn ở bụng ở đùi chứng tỏ đã có một thời người mẫu nặng ký hơn bây giờ nhiều. Bà già này đáng tuổi má của hầu hết những đứa đang vẽ bà. Mới tuần trước một thanh niên khỏe mạnh và rất đẹp trai ngồi làm mẫu, trông cứ như tượng Hi Lạp; tụi con gái xuýt xoa trầm trồ, hau háu nhìn, vẽ lấy vẽ để. Hôm nay thằng Johny lanh chanh chiếm chỗ gần bà người mẫu nhất, nó tha hồ chiêm ngưỡng bộ ngực, những nếp nhăn rất nghệ thuật và lông tóc đã phai màu. Bực mình nó lớn tiếng phàn nàn:


      - No fair, Bob.


      Tụi con gái cười ré lên, giáo sư Robert phải nói giả lả đôi điều là mình đang cần học vẽ ánh sáng và các góc cạnh. Không biết bà người mẫu có hiểu gì không, buồn lòng gì không, chỉ thấy bà như mỉm cười độ lượng. Tôi nói với Tiến:


      - Nếu em tháng Sáu lên thay bà già này thì tuyệt.


      Tiến nói: Từ hôm vào học tới nay, mày mới nói một câu nghe được. Vậy khều em quay lại rồi dịch cho em nghe đi.


      Nhưng rồi cả hai đứa không đứa nào dám dịch câu ấy cho June nghe. Trong không khí tĩnh lặng của lớp học, chỉ nghe thấy tiếng sột soạt của bút chì kéo trên giấy và một mùi hương thoảng rất nhẹ từ mái tóc June. Tờ giấy trước mặt tôi mãi vẫn chưa có hình bóng bà người mẫu, nhưng đã hiện lên rõ ràng mái tóc óng ả của June, cái sống mũi nhìn nghiêng rất thẳng và một vệt đen nhỏ, khúc cuối của một con mắt thăm thẳm mơ hồ.


      Tôi mở hộp đàn ra để đàn trước mặt, ngồi lên một bệ bằng bê tông và bắt đầu đàn những bản nhạc cổ xưa. Chỗ này nối với bậc thang lên chợ và bậc thang xuống đường bến phà. Tôi chọn chỗ này vì có vài mảnh tường bao bọc nên tiếng đàn vang dội mạnh. Kéo xụp cái mũ rộng vành xuống tận gần mắt, tôi biết trông tôi phong sương lắm.


      Tuổi trẻ qua đi trong chiến tranh và tù đày; còn bạn bè ư? đứa nằm lại trên đồi máu, đứa chìm dưới biển sâu, đứa lưu lạc quê người, giờ như lá mùa thu rơi rụng như cánh hải âu không biết về nơi đâu. La Cumparsita tình tứ reo lên, La Paloma dìu dặt êm đềm, Bolero flamenco với những tiếng gõ rối lòng người, Malaguẽna Mexicana quay cuồng mê tại. Tôi đã cố chọn những bản nhạc dễ nghe để cầm chân được vài du khách, đám học trò trường South. Tôi vẫn cúi mặt xuống, mắt nhìn cần đàn hay nhìn chân của những người dừng lại. Tiền lẻ và bạc cắc bắt đầu rơi lộp độp xuống hộp đàn cùng với những tiếng vỗ tay lác đác mỗi khi dứt bản đàn.


      Ngày còn nhỏ theo cha mẹ đi ăn nhà hàng, một tối, tôi thấy có người thanh niên đàn vĩ cầm trong tiệm. Anh có một cái vĩ cầm cũ kỹ phong sương như bộ quần áo anh mặc trên thời. Anh còn có một cái mặt rỗ hoa và đôi mắt buồn thê thiết. Lúc anh đứng gần tôi, tôi dúi vào túi quần anh tất cả tiền tôi mang theo và bảo anh đàn cho tôi nghe bản Dư Âm của Nguyễn Văn Tý. Lúc ấy anh đã vào nhịp một bản nhạc khác; lập tức anh dừng lại và thỏa mãn cái yêu cầu của cậu bé. Không biết có đúng tâm sự không mà tôi thấy anh gò người nắn nót tiếng đàn cho êm ái đê mê. Thỉnh thoảng anh lại nhìn tôi với đôi mắt buồn bã. Bây giờ đến lượt tôi. Đã qua được mấy bài đầu tôi bắt đầu đàn với nỗi mê say của riêng mình.


      Có lúc người nghe thật đông, rồi lại biến đi đâu cả, Chỉ cần đếm những bàn chân, những bàn chân đi giày da của người lớn tuổi, giày cao gót của phụ nữ, giày chạy thể thao hay những đôi bé nhỏ của những bé con mến mộ. Bỗng tôi bàng hoàng cả người khi nhận ra một cặp chân quen thuộc. Mặt tôi nóng bừng lên, tay đàn lạng quạng không trôi chảy nữa. Đó là một đôi giày cao gót, có những sợi da đan chéo và mũi giày rất nhọn; trong có hai bàn chân xinh xắn với những móng chân hồng hồng được chăm sóc kỹ. Suốt trong ba tháng mùa xuân gần gũi, từ đỉnh đầu đến gót chân, có phần thân thể nào của nàng mà tôi không nhớ như in...


      3.


      June cúi xuống cái hộp đàn cũ kỹ ấy. Tôi tưởng có là bỏ vào đấy một nắm tiền; nhưng không, cô mạnh dạn đón cái nắp lại rồi đứng dậy xách cái hộp đàn của tôi đi người lên cầu thang phía trên. Trời đất! không biết cô định giờ trò gì! Tôi cũng ngưng đàn, ném bỏ cái mũ rộng vành, ôm đàn đi theo cô trước những con mắt ngơ ngác của vài người đang đứng nghe. Khi lên hết những bậc thang, cô đi ra khỏi chợ rồi quẹo phải trên hành lang bên ngoài, nơi người ta bán hoa, đồ chơi, đồ kỷ niệm. Cô đi thong thả không thèm nhìn lại đàng sau, có tôi ngơ ngẩn thần hồn luồn lách qua đám người đông đảo. Tất nhiên cô biết tôi không tiếc cái hộp đàn cũ, có ít tiền lẻ trong đó, nhưng cô biết tôi cứ phải bám lấy cô, dù cô có bỏ chạy. Với hành động quyết liệt đó thì tôi phải thua. Rồi June dừng lại trước một cửa tiệm. Tôi bước tới mở cửa và hai chúng tôi đi vào. Đó là một tiệm cà phê cũ xưa và quyến rũ như cái bảng hiệu khắc nổi, sơn đã phai màu. June đưa cho tôi cái hộp đàn và lại quầy mua hai ly cà phê với bánh donuts. Chúng tôi tìm được một bàn ở tầng trên, cạnh cửa sổ. Ở đây nhìn xuống một toàn cảnh bao la của vịnh biển xinh đẹp. Ngoài xa những hòn đảo nhấp nhô, có những chiếc phà trắng rẽ sóng qua lại.


      Hình như chúng tôi đã quen nhau từ lâu lắm. Nàng đặt xuống ly cà phê và bánh ngọt cho tôi rồi bắt đầu kể lể:


      - Anh đừng vội trách em sao không chịu nói tiếng Việt. Hai người đàn ông cứ ôm chặt lấy nhau, đâu có lúc nào hở ra một chút để người ta chen vô? Với lại em cũng muốn nghe người ta nói lén gì về mình chớ?


      - Em nghe được những gì?

      - Nhiều lắm. Anh Tiến ăn nói ẩu tả nhưng thành thật; còn anh ít nói nhưng ma quỷ hơn bạn anh nhiều.


      - Phải vậy không? nói rõ đi người đẹp.


      - Anh Tiến lúc nào cũng diễu em là dân Mông Cổ, làm như em chỉ có mông với cổ, còn tâm hồn người ta nữa chứ? Có lần em vẽ thác nước đang chảy, dưới dòng có mấy cục đá, anh ấy nói cục đá giống như mấy củ khoai lang Tây; có giận không hà! em vẽ chưa xong mà. Ảnh đâu rồi?


      - Đi làm farm, mùa thu mới về. Anh có số điện thoại của nó đây, gọi phôn mắng nó đi.


      - Em dỡn thôi mà, em tha tội cho ảnh rồi!


      - Thế em có tha tội ma quỷ cho anh không?


      - Anh thiệt là quỷ quái. Anh đoán biết em là người Việt, vì có lần sơ hở em mang guốc đi học, nhưng anh không chịu làm quen với em bằng tiếng Việt. Em là con gái đâu làm quen trước. Thế là anh dùng lối gậy ông đập lưng ông - anh tán em quá trời - mà tán tỉnh em qua ông bạn khờ khạo của anh.


      - Thật vậy sao?

      - Chứ còn gì nữa.


      Nàng cười lớn, quay hẳn thế ngồi, chỉ tay ra biển: Nhà em ở bên kia đảo.


      - Đâu? Căn nào, chỉ cho anh coi.


      - Xa lắm, đi phà một giờ mới tới nơi — anh thiệt là khéo nói chơi – làm sao mà thấy nhà được. Em để xe bên ấy, qua bên này lấy bus tới trường.qua,


      - Anh muốn qua bên ấy có được không?

      - Đâu có ai cấm anh đâu! Cứ việc mua vé phà rồi đi qua, dễ ợt mà!


      - Ý anh muốn nói là qua gõ cửa xin ở đợ nhà em, em có mở cửa không?

      - Chồng em sẽ ra mở cửa. Anh ấy chơi dao, chơi súng, anh liệu sức mà qua.


      Chúng tôi yên lặng mỗi người theo đuổi một ý nghĩ...  Tôi hẹn em mùa hè tôi sẽ đánh đàn ngoài chợ, em tìm đến liền, bây giờ lại còn hù có chồng dao búa. Ừ mà cũng không biết đâu chừng. Nhưng tôi vui với ý nghĩ đó.


      - Cười gì vậy?

      - Anh không có cười em.

      - Có mà!

      - Không có!

      - Có...


      - Thôi mình đi xuống bến phà đi, anh muốn xem một tụi phà ấy...


      Đứng trên hành lang cao có song sắt nhìn xuống chỗ phà đậu. Chưa có cái nào về bến, chúng còn trên đường đi. June nói:


      - Phà ở đây lớn lắm, chở được hàng trăm xe hơi với người. Để xe dưới đó đi lên tầng trên ngắm cảnh, ở đây có bán thức ăn, đồ kỷ niệm.


      Tôi nói với June:

      - Xưa anh đi làm ở một nhiệm sở bên kia sông Cát Lái, nên hàng ngày phải đi phà. Phà này chỉ chở được hai ba cái xe hơi với đám người hỗn tạp đủ cả quân dân cán chính. Phà đã rời bến cả thước mà lắm tên thanh niên bạo gan còn phóng qua cái vèo. Có khi một bà quang gánh thúng mủng kềnh càng, vừa lạch bạch chạy vừa gọi bác lái phà ơi ới; lắm lúc bác lái cũng thương tình mở lại số de, hạ cái mỏ bàn xuống, làm phước để đức cho con...


      Mãi rồi cái phà trắng cũng đến. Nó to bằng cái chiến hạm! Không, nó dềnh dàng bề ngang như một cái tầu chở dầu thì đúng hơn. Khi sợi dây chận ngang được tháo gỡ, các xe từ trong phà từng cái một chạy nhanh lên bến.


      Lúc bấy giờ June rút trong túi ra một xấp vé phà, tình tứ nhìn tôi rồi xé đưa cho một vé.


      Tôi nói:

      - Như vậy có nghĩa là chồng em ở bên đảo sẵn sàng mở cửa mời anh vô nhà?


      June không trả lời kéo tay tôi đi qua chỗ soát vé. Nàng quá quen thuộc với phà, dẫn tôi đi đủ chỗ: tầng trên, tầng dưới, có lúc chúng tôi ra phía mũi tầu để nhìn mấy con hải lâu bay lượn đằng trước. Tới lúc mỏi mệt chúng tôi tìm cái ghế băng thật dài. Nàng nằm dựa vào người tôi như thể vợ với chồng. Bây giờ cây đàn nằm trong hộp để dưới chân thừa thãi vô dụng quá. Đàn ơi xin lỗi nghe! Làm sao tôi có thể ngờ được nhịp đập từ trái tim yếu mềm lại rạo rực đến thế; làm sao niềm hạnh phúc lại trào dâng phủ kín một đời trai phong ba bão táp. Tôi ngồi yên không dám thở mạnh, hệt như anh chăn cừu – trong truyện Những Vì Sao - khi được người đẹp dựa vào vai mà ngủ. Nếu có điện thoại trên tay tôi sẽ gọi cho Tiến:


      - Tiến ơi! đã tìm được nàng Clementine chưa?

      - Được rồi! có tới mấy nàng lận! nhưng mập như cái lu, còn mày?


      - Nàng Stephanette đang nằm đây, dựa vào vai tao mà ngủ!


      - Hôn em chưa?

      - Chưa!


      - Hôn đi chứ, còn đợi gì nữa hả thằng cù lần!


      - Không được đâu, phải gượng nhẹ với những vì sao.


      4.


      Mùa hè năm ấy chúng tôi quấn quít bên nhau, đâu đâu cũng là kỷ niệm. Những chỗ tầm thường ghi dấu chân nàng, nay cũng sáng lên trong tôi khung trời yêu thương, Những chiếc phà trắng như những con thiên nga khổng lồ lướt trong vịnh biển mờ sương chở chúng tôi qua lại miền hạnh phúc.


      Nhưng hạnh phúc nào chẳng chứa sẵn tai ương, cuối tháng tám nàng báo cho tôi biết nàng sẽ đi đến một nơi xa xôi bên kia đại dương; đừng yêu thương nữa, đừng tìm kiếm, đuổi theo, rồi nàng bặt tăm. Sự việc ấy khiến tôi gục xuống nhanh như một thân cây rừng trúng búa rìu của những tiều phu lão luyện, như người lính đang chiến đấu với niềm tin mãnh liệt, bị bỏ rơi năm nào. Mảnh hồn đau thương rách nát ấy không kim chỉ, không thợ may lành nghề nào có thể vá lại được, ngoại trừ sự trở về của nàng.


      Một năm sau tôi nhận được thư nàng.

      Anh yêu thương,


      Bác sĩ bảo em không còn sống được bao lâu nữa. Bây giờ anh chẳng còn nhận ra em đâu: mắt xanh đã phai màu, môi nâu đang rướm máu. Mái tóc năm xưa anh vuốt ve trìu mến nay đã rụng gần hết. Mỗi lần thay máu nhan sắc cũ lại hiện về ve vuốt mối tình xưa, nhưng lại tàn phai nhanh chóng. Ngoài trời gió mưa nhiều lắm, bóng đêm dày đang đe dọa...


      Ôi, nếu có anh ở đây em không chết đâu!...

      Nhưng không biết đó có phải thật là thư của nàng không, vì hôm sau tôi không tìm lại được đoạn thư đau thương đó, tôi như cây rừng bị đốn gục, như người lính bị bỏ rơi hoang mang điên loạn. Tôi ngờ rằng tôi đã lầm với đoạn thư ngắn ngủi của nàng Graziella lúc hấp hối gửi cho tình nhân.


      Tôi chỉ còn mỗi một niềm vui là ra bến nhìn những chiếc phà trắng rẽ nước ra đi. Nhưng bây giờ nó giống hệt chiếc quan tài trắng, có những con hải âu cũng trắng toát theo sau đưa tiễn.


      Mãi tận hai mươi tháng sáu mới vào hè, bây giờ chỉ là cuối xuân. Chiều cuối xuân năm nay ông ta lại mang xe đạp ra hồ. Không còn trẻ trung như các thanh niên thiếu nữ người bản xứ, với lại cuối xuân còn lạnh lắm, ông mặc quần dài, thêm cái áo jacket, mắt mang kính lão mà tròng cái helmet lên đầu trông thật kỳ dị. Nhưng không sao, chỉ cần điều chỉnh dây buộc cho nón che hết trán, nhổng đuôi sau lần là coi cũng đỡ.


      Giờ này những cây đào Quanzan đã tàn hết những bông hoa đỏ, nhưng nơi đây hoa cỏ mọc đầy, hết hoa đào lại đến hoa khác đua sắc thắm tươi; vả lại ông ra đây đạp xe để giữ gìn sức khỏe chứ không phải ngắm hoa. Hình như ông rất ham sống và còn muốn sống mãi để đợi chờ.


      Đường ven hồ bây giờ nhiều xe lắm. Tất nhiên xe hơi vẫn tránh xe đạp, nhưng cẩn thận ông cho xe đạp lên hẳn đường đi bộ.


      Gió mơn man trên mặt hồ gợn sóng lăn tăn, những lá súng tròn bằng bàn tay nổi đầy ven hồ, nhưng hoa súng chưa trổ bông. Đàn vịt trời bé nhỏ đi hàng một và đâu đây van tiếng kêu xao xác của những con thiên nga xám lẫn tiếng vỗ cánh phành phạch trên bãi cỏ xanh non.


      Hồ này lớn lắm, chớ không phải như mấy cái hồ bé tí teo nơi quê hương ông, nên thỉnh thoảng ông dừng xe trong một cái park để ngắm nước ngắm trời rồi lại đi. Gần đến cầu 90 ông giật mình thảng thốt vì một dáng người đi đàng trước. Đúng là June của ông đây mà, cũng mái tóc đen huyền, bước đi uyển chuyển tiên nga. Ông định gọi tên cô và thét lên nỗi vui mừng nhưng ông kềm ngay lại được. Ồ mà làm gì có June nữa nhỉ. June của ông đã bỏ đi một nơi xa xôi mơ hồ nào từ hơn hai mươi năm trước cơ mà? Có phải là thiếu nữ xuân tình kia không?


      Đoạn này đường đi bộ chật hẹp nên ông không thể vượt qua xem mặt nàng. Ông đi thật chậm, có lúc chống chân đứng đợi; còn nàng cứ chậm rãi, chờn vờn hình bóng trước ông. Rồi tới chỗ đường rộng, ông vượt qua bên phải nàng, cẩn thận liếc ngang; nhưng hình như vô tình nàng lại quay mặt ra đường. Ông vốn tính dịu dàng, không thích sỗ sàng quá đáng nên không quay ngoắt hẳn người để nhìn cho rõ hơn. Thế rồi ông tự an ủi: thôi cũng chẳng sao, nếu cô ấy giống June, lại thêm đau lòng. Đến một cái park, ông cho xe rẽ vào nghỉ ngơi. Định bụng lát nữa đi ngược về xem cho rõ một lần. Park này khá lớn, có vài cầu bằng gỗ đưa ra xa bờ để câu cá. Giờ này nước tràn lan lênh láng, thường có cá lên theo ăn mồi, nên thỉnh thoảng cũng có tiếng reo hò của những tay câu tài tử... Ông trở lại con đường đi bộ ngay. Ngó bên trái: nàng chưa đi tới; ngó bên phải: hình bóng nàng đã chờn vờn tận đằng xa. Lạ, sao đi trông thơ thẩn mà nhanh quá vậy, thế là ông vội vã đuổi theo. Nhưng lần này nàng lại quay mặt ra phía khác. Thấy rờn rợn sau lưng, ông đạp nhanh hơn. Hay là ma quỷ trêu ghẹo gì đây.


      Qua cầu 90 một khúc xa, nhà cửa che lấp hồ. Những ngôi nhà lộng lẫy có vườn được chăm sóc kỹ lưỡng. Thỉnh thoảng có một lỗ hổng và ông lại trông thấy hồ. Trước mặt ông là một nhà hàng Trung Hoa và bên kia đường có chợ nhỏ. Ông dừng lại chống xe và đi vào tiệm ăn. Có lẽ cái bàn nhỏ ông đang ngồi, kê cạnh cửa sổ là nơi lý tưởng để chờ người đẹp đi qua. Ông gọi một món ăn nhẹ và nhâm nhi ly trà. Rồi nàng tới thật, lần này nhìn thẳng vào ông. Ông giật nhổm người lên. Đúng rồi, June đấy chứ còn ai: áo dài tha thướt đi qua, hai tay cầm mấy bông mai quế, thứ hoa hồng vàng tươi đẹp nhất mà có lần ông đã mê mẩn ngắm nàng đi giữa đường phố trong ngày lễ hội.


      Lật đật ông chạy ra quầy tính tiền, nhưng tiệm ăn khá vắng này không phải lúc nào cũng có người ngồi trực ở quầy. Ông càng bồn chồn nóng nảy hơn, không lẽ bỏ đi ngang! Mãi sau mới có người đi ra. Không đợi lấy tiền dư, ông phóng vội lên xe hăm hở đạp. Đạp mãi rồi quay trở lại mà hình bóng June vẫn mất tăm. Vừa mệt mỏi vừa thất vọng, ông dừng xe ở chỗ có tấm bảng đề public lakeshore. Giữa hai dãy nhà cao là một đường ngắn chạy thẳng xuống hồ. Một ít nước lóng lánh hiện ra cùng với đá tảng và cây bụi. Ông dẫn xe xuống con đường đó và thấy ngay đoạn bờ hồ ngắn ngủn nhưng thật đẹp. Người ta để sẵn ở đó một ghế dài và một ghế dựa bằng gỗ phong còn rất chắc chắn và đẹp dù thời gian với mưa nắng dãi dầu. Ông dựng xe, ngồi xuống ghế dựa. Chung quanh ông hoa iris tím đang nở, cánh mong manh, tỏa hương mùi hồng phấn thơm ngát.


      Ngày cũng sắp tàn, nắng tắt nhanh, gió đã lành lạnh rung những bụi cây. Hai bên dãy nhà cao phía sau, đèn đã lên; qua cửa kính rộng nhà ai đang sửa soạn dùng cơm chiều. Giờ này căn nhà cổ rộng mênh mông của ông vắng lặng, còn đợi ông về thắp lên chút ánh sáng lẻ loi đêm đêm.


      Rồi có tiếng rẽ nước của mái chèo, một con thuyền nhỏ sắp lướt qua. Lần này ông thấy rõ ràng June ngồi trên thuyền đang tươi cười nhìn ông. Tóc bay trong gió, đôi mắt đen lánh, giọng nói con gái miền Tây ngọt ngào đả đớt ở đầu giây bên kia mỗi lần ông gọi điện thoại:

      - Hi! anh, anh có khỏe hôn?


      Thế nhưng con thuyền nhỏ cứ lạnh lùng lướt qua và mất dạng trong đám lau sậy với sương chiều. Lần này thì ông biết rõ đó chỉ là ảo ảnh. Ảo ảnh bị thôi thúc hiện ra từ nỗi tuyệt vọng đợi chờ. Và những giọt nước mắt nóng hổi lăn trên má già nua, rơi nhanh xuống bàn tay có da nhăn nheo cằn cỗi; lăn tới những cái móng tay cong queo nứt nẻ. Những cái móng tay ấy ngày xưa ông đã búng trên sáu sợi dây đàn những bản tình ca êm ái để ru người yêu dấu.


      Cao Hoàng

      Nguồn: Seattle, Xanh Mãi Ngàn Năm - Tuyển tập nhiều tác giả
      Ghi dấu 50 năm người Việt định cư tại Hoa Kỳ 1975-2025


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Đợi một chuyến phà Cao Hoàng Truyện ngắn

    3. Truyện Ngắn (Học Xá) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Truyện

        Cùng Mục (Link)

      Đợi một chuyến phà (Cao Hoàng)

      Quyền Được Rên (Lê Mai)

      Con Sông Đổi Dòng - Phần II (Trần Hồng Văn)

      Con Sông Đổi Dòng - Phần I (Trần Hồng Văn)

      Hoa anh đào nở rộ (Truyện ngắn)

      Người Nhập Cư (Trần Hồng Văn)

      Ngôi Sao Sài Gòn (Vũ Thất)

      Tiếng Đàn Piano Lúc Nửa Đêm (Nguyễn Đại Hoàng)

      Trận Phước Quả (Nguyễn Ngọc Thạch)

      Tiếng Hát của Người Dân Chài (Trần Hồng Văn)


      Truyện Đọc

       

      Cánh Vạc Mùa Thu (Trần Hồng Văn) 

      Đêm Giáng Sinh Nhiệm Mầu

       (Trần Hồng Văn) 

      Đứa Con Út (Trần Hồng Văn) 

      Một Đêm Phiền Muộn

       (Trần Hồng Văn) 

      Tiếng Vọng từ Đáy Vực

       (Trần Hồng Văn) 

      Con Cọp (Trần Hồng Văn) 

      Đại Sư Và Giai Nhân

       (Trần Hồng Văn) 

      Tây Ninh – Chút Còn Lại Trong Lòng Người Lính (Nguyễn Mạnh An Dân) 

      Cái Giếng (Trần Hồng Văn) 

      Vùng Đồi (Phạm Văn Nhàn) 

      Người Cha (Trần Hồng Văn) 

      Ngọn Đồi Trầm Lặng (Trần Hồng Văn) 

      Người Mẹ (Trần Hồng Văn) 

      Lưỡi Dao Cạo (Trần Hồng Văn) 

      Hoa Với Lá Chỉ Một Màu Trắng Đục

       (Trần Hồng Văn)    

       

      Truyện Đạo

        Cùng Mục (Link)

      Im Lặng Của Thiền Sư (Phan Trang Hy)

      Kể Lại Vài Giai Thoại Trong Tập Vào Thiền (Doãn Quốc Sỹ)

      Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp (Hồ Hữu Tường)

      Mẹ Quán Thế Âm (Phạm Huê)

      Những Hạt Đậu Biết Nhảy (Phạm Huê)

      Maria Quán Thế Âm (Phạm Huê)

      Sợi Tơ Nhện (Nguyễn Văn Thực)

       
      Ad-33 (Học Xá) Ad-33 - Google - QC4 (Học Xá)

       

      Phim VN trước 1975

       

      (Thẩm Thúy Hằng-Kiều Chinh-ThanhNga-BạchTuyết)

       

      - Chiếc Bóng Bên Đường   - Nàng (1970)

      - Người Cô Đơn (1972)    - Xa Lộ Không Đèn

      - Bão Tình (1972) - Sóng Tình (1972)

      - Chúng Tôi Muốn Sống (1956)

      - Trường Tôi (1973) - Nắng Chiều (1973)

      - Giỡn Mặt Tử Thần (1975)

      - Năm Vua Hề Về Làng (1974)

      - Tứ Quái Sài Gòn  - Những Giọt Sương Khuya

      - Như Hạt Mưa Sa 1 - Như Hạt Mưa Sa 2

      - Như Hạt Mưa Sa 3 - Như Hạt Mưa Sa 4

      - Vượt Sóng

      - Cuộc Di Cư Năm 1954

        Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)