|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà văn Trần C. Trí
và Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc
Nhà Phê Bình Văn Học Bùi Vĩnh Phúc là nhà văn, nhà thơ, nhà dịch thuật, nhà giáo và nhà ngôn ngữ học.
Trong cõi phê bình văn thơ vừa mênh mông, dàn trải, vừa tỉ mẩn, rạch ròi của Bùi Vĩnh Phúc, kết quả của một công trình mất nhiều thập niên như cuốn 9 Khuôn Mặt. 9 Phong Khí Văn Chương, tôi chỉ có thể tập trung vào một vài chỗ nhỏ, rất nhỏ, để nói lên một số nhận xét của mình đối với lối phê bình tài hoa của tác giả về một số câu thơ của Thanh Tâm Tuyền và Bùi Giáng.
Đôi khi, chúng ta chợt quên đi nhà thơ Bùi Vĩnh Phúc, có lẽ là vì những tác phẩm chính của anh là về phê bình văn học, vốn làm nên tên tuổi của anh trong văn chương hải ngoại.
Vì vậy, tôi muốn trích một bài thơ bốn câu của nhà thơ Bùi Vĩnh Phúc, để gọi là mời gọi tất cả chúng ta cùng bước vào không khí thơ ca, mà cũng là đề tài nhỏ của tôi trong bài này:
Cắt
Biển. Đêm giông bão. Nhớ chia lìa.
Ghe cắt vào sông tiếng cắt khuya
Đời cắt vào ta ngọn gió buốt
Em cắt vào ta ánh sao khuê.
Bài thơ thật cô đọng và thấm thía. Chỉ với 28 chữ, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh chứa đựng một âm thanh duy nhất (Ghe cắt vào sông tiếng cắt khuya) mà độc giả phải tự “nghe ra”, tuỳ theo trí tưởng tượng của mình 1. Cùng lúc là những hình ảnh cụ thể (biển, đêm, giông bão, sông, ghe, sao), pha lẫn với những hình ảnh trừu tượng (đời, em, ta), cảm xúc và cảm giác (nhớ, chia lìa, buốt). Động từ “cắt” như lưỡi dao bén ngọt, cứa vào những thực thể và cả vào tâm hồn của tác giả, để lại những chữ, những vần, những tứ thơ đẹp và buồn, đau đớn và mênh mang.
Cái Tôi ẩn mật và Dương bản thiên nhiên ngày vây hãm trong Thơ Ở Đâu Xa của Thanh Tâm Tuyền (hay “Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền”)
Nhưng bây giờ chúng ta hãy trở lại với nhà Nhà Phê Bình Văn Học Bùi Vĩnh Phúc. Có thể sự so sánh này của tôi là khá khập khiễng, nhưng tôi nghĩ, một nhà phê bình văn chương cũng giống như một hướng dẫn viên du lịch. Khi đi ngoạn cảnh, chúng ta sẽ thấy rõ, thấy sâu, thấy nhiều cảm xúc hơn đối với vẻ đẹp của thiên nhiên đang bày ra trước mắt, nếu may mắn có được một hướng dẫn viên kinh nghiệm, nhiều kiến thức, và nhất là nhiều tâm tình, đang cùng chúng ta chiêm ngưỡng một công trình tuyệt mỹ của tạo hoá.
Một áng văn hay một bài thơ, tự nó đã có một vẻ đẹp riêng, nhưng qua bàn tay “phù thuỷ” của một nhà phê bình tài hoa, vẻ đẹp đó sẽ trở lên sống động, tương tác với người đọc qua từng cung bậc cảm xúc của mình.
Điều gì sẽ xảy ra khi một nhà phê bình thơ cũng là một nhà thơ, đồng thời là một nhà ngôn ngữ học? Đó là một sự giao thoa tuyệt diệu giữa thi ca và ngôn ngữ, mà trong đó Nhà Phê Bình/nhà Ngôn Ngữ Học đã soi sáng cho người đọc thấy hiệu ứng âm thanh đóng một vai trò trọng yếu trong nghệ thuật làm những vần thơ đang nằm im lặng trên trang giấy bỗng bừng sống dậy, lấp lánh trong không gian ba chiều, cộng thêm chiều thứ tư nữa là cảm xúc của người thưởng ngoạn bài thơ.
Thi ca khác văn xuôi ở chỗ nó dành cho âm thanh, nhịp điệu một vị trí đặc biệt, nếu không muốn nói là cao hơn những yếu tố cần thiết khác cần có cho một bài thơ, cho dù đó là một bài thơ tự do. Về vị trí của âm thanh trong thi ca, nhà văn/nhà thơ/giáo sư Alberto Ríos (Khôi nguyên giải thưởng thi ca Walt Whitman, 1981) có nhận xét: “Âm thanh hiện hữu hay không hiện hữu trong một bài thơ—có nghĩa là, với tư cách một người đọc, bạn nhận thức điều này rất rõ ràng, nếu không thì nó chẳng tạo ra điều khác biệt gì đáng kể cả. Hai tình trạng này có thể được coi là cường độ âm thanh hay khoảng cách âm thanh. Cường độ âm thanh hiện hữu khi âm thanh là tất cả trong một bài thơ. Khoảng cách âm thanh, trái lại, hiện hữu khi âm thanh chỉ là một hay nhiều thành phần của bất cứ yếu tố nào làm cho bài thơ thành công.” 2
Khi phê bình một bài thơ, Bùi Vĩnh Phúc xem xét nhiều góc độ khác nhau như lời thơ, ý thơ, tứ thơ, vần điệu, nhưng đặc biệt nhất đối với tôi là lúc anh “chiếu” thẳng vào từng từ ngữ, tháo tung nó ra như người thợ sửa đồng hồ, săm soi từng bộ phận chi li của nó. Bùi Vĩnh Phúc “gỡ” một chữ ra, lắng nghe âm và thanh của từng thành phần nhỏ nhất cấu tạo nên chữ đó, để cảm nhận những tín hiệu mà các âm thanh đó mang đến, tạo thành cái hồn của chữ, của câu và của cả bài thơ.
Bùi Vĩnh Phúc làm đầy đủ tất cả những công việc của một nhà phê bình: anh phân tích, so sánh, đối chiếu, trích dẫn, tổng hợp, chiêm nghiệm và cảm nhận, nhưng điều mà anh làm nổi bật lên trên mọi thứ, đó là việc phân tích. Người miền Nam thường nói hai chữ “phân tích” thành “phân tách”, và tôi muốn dùng cách phát âm miền Nam này để nói lên tài “phân âm” và “tách thanh” của nhà phê bình, nhà thơ và nhà ngôn ngữ học Bùi Vĩnh Phúc thú vị như thế nào.
Chúng ta thường dùng hai chữ “âm thanh” khi nói về một trong những thuộc tính của ngôn ngữ như một thói quen. Thế nhưng, nếu ngẫm cho kỹ, khi so sánh tiếng Việt với tiếng Anh, chúng ta sẽ nhận ra rằng mỗi chữ trong tiếng Việt đều có đầy đủ “âm” và “thanh”, còn từ ngữ tiếng Anh chỉ có “âm” mà không có “thanh”. Tất nhiên là tiếng Anh có “trọng âm” mà tiếng Việt không có. Dẫu sao đi nữa, nếu chữ nghĩa trong tiếng Anh hàm chứa hai loại âm, trong khi lại thiếu thanh, thì làm sao có thể trầm bổng, ngân nga khi đem vào thơ ca như trong tiếng Việt được?
Nam Lê, một nhà thơ gốc Việt làm thơ bằng tiếng Anh, cũng nhận thấy vai trò không-thể-thiếu của thanh đối với tiếng Việt (được biểu thị bằng “dấu giọng”/tone marks trong chính tả). Trong bài thơ Dire Critical của anh, Nam Lê cho thấy thanh điệu là một phần lớn trong bản sắc của mỗi người Việt (và làm sao có thể thiếu nó trong thi ca?). Bài thơ tiếng Anh nói về tiếng Việt này đậm chất ngôn ngữ học, chơi chữ, nhiều ẩn dụ, nhuốm triết lý, nếu cố dịch ra tiếng Việt e sẽ làm mất đi nhiều màu sắc, hương vị và chiều sâu của nó. Chi bằng chúng ta hãy đọc thẳng nó trong nguyên tác. Đây là phần đầu của bài thơ:
Dire Critical 3
All in the tone.
Give us each day our diacritics—our low and high, fall
and rise, our horns and holds:
Flat we are without.
(You like that, no doubt)
Give us our dau sac, huyen, nga, hoi, nang 4…
Chắc cũng cùng trong tâm tình này, Bùi Vĩnh Phúc đã say mê đi thật sâu vào thế giới âm thanh của từng chữ, từng âm tiết, thậm chí đến từng âm tố, trong một bài thơ. Muốn cảm nhận hết tài phân tích âm thanh của anh, chúng ta cần có một hiểu biết nhất định về ngữ âm và âm vị tiếng Việt. Bùi Vĩnh Phúc không nói ra điều này trong phần phê bình của anh, mà chỉ tế nhị đưa qua phần cước chú (số 4, 84). Trong phần này, anh trình bày một cách tóm tắt nhưng khá đầy đủ về cấu trúc âm, từ nhỏ đến lớn mà đa số các thứ tiếng trên thế giới cùng có là âm tố, âm tiết, âm tự và âm cú. Anh phân biệt âm đoạn là tầng có “âm điệu”, với siêu âm đoạn là tầng có “thanh điệu” (cùng với ngữ điệu và trọng âm).
Về phần thanh điệu, cước chú cho thấy các thanh trong tiếng Việt chia thành hai thành phần: cao độ (hay âm vực)—Thanh điệu cao (ngang, ngã, sắc) và thanh điệu thấp (huyền, hỏi, nặng); đường nét (hay âm điệu) có thanh bằng (ngang, huyền) và thanh trắc (ngã, sắc, hỏi, nặng). Thanh trắc lại chia thành thanh gãy (ngã, hỏi)—trong tiếng Anh được gọi là curve tones 5, hay contour—và thanh không gãy (sắc, nặng).
Với “hành trang” âm vị học đó, chúng ta có thể bắt đầu thưởng thức tài bình thơ của Bùi Vĩnh Phúc. Khi phê bình thơ của Thanh Tâm Tuyền, ở nhiều chỗ, tác giả cho thấy rằng chính âm và thanh là những yếu tố quyết định mà nhà thơ sử dụng để tạo những hiệu ứng về hình ảnh, âm thanh và nhất là tứ thơ, lột tả tâm tình của tác giả trong bài Vang Vang Trời Vào Xuân. Về bốn câu trong bài thơ này:
Đứng vững không khuỵu chân
Trên mảnh đất nghèo khổ
Thở hít tận vô cùng
Ngây say đoá hồng rợ
... Bùi Vĩnh Phúc đã thấu cảm được tâm hồn và ý chí của nhà thơ được diễn đạt, không chỉ bằng cách chọn từ ngữ, mà còn qua thanh âm của những từ ngữ đó. Cách vận dụng các thanh bằng trắc của nhà thơ đã giúp nhà phê bình “đọc” được, đồng cảm được với tính khí khái mà đúng ra chỉ ẩn sâu trong trong tâm thức của một người tù, khó lòng mà nhận diện được:
Đoạn thơ thứ hai, bốn câu giữa, xét về vần, về điệu, là những câu đặc biệt. Vần trắc cho những câu hai, bốn và vần bằng cho những câu một, ba. Nhưng cái vần bằng này là một nỗ lực kiên cường, bất khuất của thi sĩ, cố giữ cho thân và lòng mình ở cái thế thăng bằng, không gục ngã, cũng như không biến lòng mình thành một bãi chiến trường của sự oán thù. Người thi sĩ đã cương quyết đứng vững trong cuộc đời. (66)
Những thanh trắc trong câu thơ làm Bùi Vĩnh Phúc liên tưởng đến sự cứng rắn, còn những thanh bằng khiến anh nghĩ đến sự mềm mại, nhưng không phải là sự yếu đuối:
Hai chữ đầu của câu đầu trong đoạn này, “đứng vững”, đều là những âm tiết trắc, với những thanh trắc cao, để chỉ sự cương quyết. Từ “không”, thanh bằng, cao, vừa như buông lơi của thân xác, cho tâm hồn được mềm lại, vừa như một xác quyết không lay chuyển. (66-67)
Ít ai trong chúng ta đi vào sâu trong không gian âm và thanh của một chữ tưởng như là rất bình thường như chữ “không” trong câu thơ Đứng vững không khuỵu chân như Bùi Vĩnh Phúc. Khi đọc đến đó, phần lớn chúng ta chỉ thấy “không” là “không”, là một trạng từ phủ định, cùng lắm là thấy nó diễn tả thái độ bất khuất của nhà thơ, vậy thôi. Còn với Bùi Vĩnh Phúc, trạng từ phủ định này, ngoài lớp vỏ ngoài về chính tả, hình vị và cú pháp, còn có một lớp vỏ âm thanh bên dưới, chứa đựng không những là thanh bằng mà còn là thanh bằng cao, tạo nên một sự pha trộn giữa cái nhu và cái cương tồn tại song song trong một con người không chịu thua số phận.
Tháo rời từng chữ ra để săm soi rồi, Bùi Vĩnh Phúc “ráp” chúng lại với nhau, xem chúng phối hợp nhịp nhàng với nhau thế nào để làm các câu thơ bừng sống dậy 6, thấm đẫm vào tâm tư của người thưởng thức. Trong những bài thơ sau này của Thanh Tâm Tuyền trong tập Thơ Ở Đâu Xa, Bùi Vĩnh Phúc đã khám phá ra một khuynh hướng mới lạ, có phần “gai góc”, của nhà thơ khi sáng tác trong một giai đoạn mới của cuộc sống, một giai đoạn bể dâu, trong thân phận ngục tù.
Khuynh hướng mới mẻ đó phản ảnh một tâm thức mới, tâm thức phản kháng của một nhà thơ có cùng thân phận câu thúc như nhiều người quanh ông, tuôn ra những vần thơ thừa thanh trắc, ít thanh bằng, như vẽ ra một tâm hồn không còn bình yên, một tâm hồn bời bời tủi hận:
Ông rất hay dùng những kết hợp ít thấy trong thơ, như kết hợp trắc-trắc theo dạng cao-cao, một không gãy, một gãy (đứng vững không khuỵu chân, cháy rỡ mây hồng); thấp-cao (theo dạng ít thấy, dấu hỏi đi với dấu ngã, cả hai đều gãy: đứng ngây trời ẩm sũng); kết hợp ba âm trắc sát nhau: gọi nghe biển dậy sóng, thở hít tận vô cùng, tim ta cũng cháy đỏ, thoáng lơi tay tỉnh thức ngón tê mê, nhìn nắng loé ánh trên tàn lá, mưa rối mắt đong đưa búp lá nõn (câu thơ tám âm tiết mà có tới năm thanh trắc cao, thanh cuối lại gãy). (69)
Bùi Vĩnh Phúc cảm thụ một câu thơ bằng tâm hồn của một con người, một nhà thơ, nhưng đồng thời cũng bằng kiến thức sâu rộng về ngữ âm học và âm vị học của anh. Trong một câu thơ khác của Thanh Tâm Tuyền, âm tố cuối cùng của câu thơ, theo khiếu thưởng ngoạn của nhà phê bình, chính là yếu tố quan trọng nhất đã gợi cảm giác mạnh mẽ đối với tâm tình nhà thơ muốn gửi gấm đến người đọc. Mấy ai có thể thấy thổn thức chỉ vì một phụ âm đến sau cùng trong một câu thơ như Bùi Vĩnh Phúc? Tôi có cảm tưởng như anh đã đặt phụ âm đó dưới một cái kính lúp và hào hứng mô tả nó cho người đọc có thể cùng anh cảm nhận được những hình ảnh, âm thanh và tình cảm đến từ những đặc điểm vật lý tự nhiên của nó.
Câu thơ đó là Trời xanh cao vút giếng nước ngọc. Và Bùi Vĩnh Phúc đã tận tình “mổ xẻ” phụ âm cuối trong chữ cuối cùng của câu thơ, phân tích tỉ mỉ những đặc tính ngữ âm của nó và nắm bắt được hiệu ứng của chúng trong việc gây một cảm xúc hụt hẫng lẫn ngỡ ngàng cho người đọc đối với phong cảnh được miêu tả trong câu thơ này:
… Âm tiết ngọc cuối cùng lại mang trong nó một thanh trắc thấp, cũng không gãy, nhưng âm tố cuối của nó, “c”, “cờ” [k] lại là một âm tắc, vô thanh 7, âm bị tắc một cách đột ngột như hạ cái nhìn của con người một chút xuống “đáy giếng” và sững lại ở đó, bàng hoàng, trong một tâm thế và một cái nhìn quán chiếu đầy ảo hóa và thơ mộng, để thấy cái chất ngọc lung linh lóng lánh thơm và xanh biếc của bầu trời. (71)
Cảm xúc của nhà phê bình thơ, như ta đã thấy, đến từ âm thanh trong những câu thơ. Anh đã nghiêng về phía “cường độ âm thanh”, thay vì “khoảng cách âm thanh”, như nhà thơ Ríos đã nhắc đến trong phần đầu của bài viết này.
Vấn Đề Thẩm Thức Một Tác Phẩm Nghệ Thuật
Trích đoạn bàn về thơ của Bùi Giáng
Bây giờ chúng ta hãy cùng nhìn qua phần phê bình khác của Bùi Vĩnh Phúc đối với hai câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng trong một trích đoạn từ tiểu luận của anh. Ngoài một số chỗ mà Bùi Vĩnh Phúc phân tích rất tỉ mỉ về cú pháp, hình vị và ngữ nghĩa trong thơ của Trung Niên Thi Sĩ, anh vẫn không bỏ qua phần phân tích ngữ âm sở trường của mình. Điều hết sức thú vị ở đây là Bùi Vĩnh Phúc đã cho chúng ta thấy nhiều cách cấu âm của từ ngữ đã gợi ra những hình ảnh độc đáo mà người đọc có thể hình dung ra một cách vô cùng linh động. Thông thường, người đọc một bài thơ có thể mường tượng ra một hình ảnh qua cách dùng từ ngữ của nhà thơ hay những mỹ từ pháp như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, v.v. Đối với Bùi Vĩnh Phúc, hình ảnh còn đến từ âm thanh nữa. Bàn về hai câu thơ Bây giờ em ở nơi đâu/Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao, anh tỉ mỉ phân tích:
Về phương diện phát âm học, âm “âu” trong “nơi đâu” và “sầu” là một âm chúm. Tôi muốn nói là khi phát ra âm này, đôi môi người đọc hay nói phải chúm lại. Động tác chúm môi tạo hình ảnh một cái hôn, một sự trao gửi, yêu thương. (356)
Chưa hết, đó chỉ là về cách phát âm nhị trùng âm “âu” trong chữ “đâu” mà thôi. Bùi Vĩnh Phúc còn “giải phẫu” luôn phụ âm đứng đầu trong chữ này, miêu tả vị trí phát âm của phụ âm đó, cùng với thanh điệu của toàn chữ, và anh cho thấy các đặc tính ngữ âm này đã góp phần đáng kể trong việc diễn tả thái độ và tình cảm của người nói:
Từ “đâu” bắt đầu bằng phụ âm “đờ” trong tiếng Việt, là một âm mà khi phát ra, đầu lưỡi phải chạm vào thành lợi ở ổ răng phía sau những răng cửa của hàm trên. Tiếng Anh gọi âm này là “apico-alveolar”. Gần giống như âm [d] của những từ “do, did” trong tiếng Anh... Từ “đâu” lại có thanh phù bình chứ không phải trầm bình. Bởi thế, câu hỏi được đặt ra một cách nhẹ nhàng, âu yếm: Em ở nơi đâu? (356)
Bùi Vĩnh Phúc còn xét đến một khía cạnh trong phương ngữ học trong câu thơ kế tiếp của Bùi Giáng, Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao. Đối với anh, một câu thơ không chỉ đơn thuần là dòng chữ mực đen nằm trên giấy trắng một cách câm lặng. Anh nghe chừng như chàng thi sĩ đã từng “lùa bò vào đồi sim trái chín” thủ thỉ câu thơ này với người yêu cũ bằng một giọng đậm đà của xứ “khúc ruột miền Trung”, đặc biệt là cách phát âm của một phụ âm đầu có thể giúp phân biệt một người nói giọng Bắc với một người nói giọng của miền khác. Ở chỗ này, nhà phê bình bỗng trở thành một ông giáo đứng trước bảng đen, đang say sưa bình thơ, đồng thời lồng vào đó là bài học ngữ âm bậc đại học:
Từ “sầu” bắt đầu bằng phụ âm “sờ”, đọc là [s] (voiceless alveolar fricative) theo lối Bắc, hoặc đọc là [ȿ] (voiceless postalveolar retroflex fricative) theo lối Nam hoặc Trung, đều là những âm xát xuýt (fricative), phát ra hơi gió (sibilant) một cách liên tục. Tuy nhiên, nếu đọc theo lối Nam và Trung [ȿ] (âm quặt lưỡi) thì cuống lưỡi phải chạm vào phần vòm cứng ở ngay sau ổ răng cửa hàm trên, hơi gió được cuộn, ép lại, và đẩy ra mạnh hơn. Nếu đọc theo lối Bắc [s] (âm chân răng) thì nó cũng giống như trường hợp của âm [d] trong “đâu”. Bùi Giáng sinh ở Quảng Nam, người miền Trung, cho nên chắc đọc “sầu” với âm đầu là [ȿ]. Từ “sầu”, như thế, sẽ có âm gió thở mạnh ra (dù phần nào nghe nặng và đặc hơn so với âm [s]), lại thêm thanh trầm bình (huyền) đè xuống một cách thiết tha, nặng và buồn, da diết, rất hợp với tâm trạng của thi sĩ. (356)
Tôi nghĩ như thế này, có lẽ là từ trước tới giờ mình đọc chưa đủ nên biết chưa tới, nhưng cũng có thể là từ trước tới giờ chưa có ai phê bình thơ mà đi vào tận cùng của thế giới âm và thanh như Bùi Vĩnh Phúc. Anh dùng ngôn ngữ học để lột trần ngôn ngữ trong thi ca. Tôi vẫn cho rằng thơ văn là nơi thăng hoa tột cùng của ngôn ngữ loài người. Đặc biệt là trong thơ ca tiếng Việt, ngôn ngữ đã được thể hiện một cách rốt ráo qua phần tinh hoa nguyên thuỷ của nó: đó là phần âm điệu và thanh điệu. Đối với những người thưởng thức hay phê bình thơ có khuynh hướng nhận nhìn “cường độ âm thanh”, thì âm thanh là thế mạnh, là chất liệu chính của một bài thơ, và Bùi Vĩnh Phúc đã giúp chúng ta soi rọi chói chang vào phần nổi bật nhất đó bằng khối óc, trái tim, bằng cảm xúc, cảm hứng và bằng tài hoa của một nhà phê bình văn học mà dòng văn chương Việt hải ngoại may mắn có được trong thế kỷ 21 này.
_________________________________________
(*) Nhà văn, TS. Hiện đang giảng dạy về Romance languages và Vietnamese tại University of California, Irvine.
1 Một dạng của “auditory imagery”, một trong những thi pháp đòi hỏi người đọc phải “hình dung” ra âm thanh.
2 Nguyên văn “Sound exists or does not exist in a poem--that is, as a reader you are very aware of it, or else it makes no particular difference. These two conditions may be thought of as sonic intensity and sonic distance. Sonic intensity is when the sound is everything in a poem. Sonic distance, on the other hand, is when sound is simply one more part of whatever makes the poem successful.” Mooring Against the Tide: Writing Fiction and Poetry. Ed. Jeff Knorr and Tim Schell. Upper Saddle River, NJ: Prentice Hall, 2001. "Degas in Vegas: Some Thoughts on Sound in Poetry." 34-37.
3 Nam Lê chơi chữ trong tựa đề này, biến tính từ “diacritical” (‘thuộc về dấu giọng’) thành danh ngữ “dire critical” (‘lời phê bình tàn khốc’).
4 Le, Nam. trích trong "36 WAYS OF WRITING A VIETNAMESE POEM." The American Poetry Review, vol. 52, no. 2, Mar.-Apr. 2023, pp. 23+. Gale Literature Resource
5 Andrea Hoa Pham, The Key Phonetic Properties of Vietnamese Tones: A Reassessment - Paper at the 15th International Congress of Phonetic Sciences, Barcelona, 2003.
6 Bùi Vĩnh Phúc dùng động từ rất gợi hình là “bám” để mô tả sự kết hợp khắng khít có dụng ý của Thanh Tâm Tuyền giữa các âm tiết trong câu thơ.
7 Thuật ngữ “thanh” dùng trong phần phê bình của Bùi Vĩnh Phúc chỉ hai khái niệm khác nhau: Khái niệm thứ nhất thuộc về âm vị học/phonology, trong tiếng Anh là “tone”, ví dụ như “thanh sắc”/high-level tone (như trong cước chú của tác giả về hệ thống thanh tiếng Việt); khái niệm thứ nhì (dùng trong trích đoạn này) thuộc về ngữ âm học/phonetics, trong tiếng Anh là “voicing”. Tác giả miêu tả âm [k] là “vô thanh”/voiceless, đối lại với âm [g] (cũng cùng vị trí phát âm là âm ngạc mềm/velar consonant) là phụ âm “hữu thanh”/voiced.
- Hiệu Ứng Của Âm Và Thanh Trong Thơ Qua Lăng Kính Của Nhà Phê Bình Văn Học Bùi Vĩnh Phúc Trần C. Trí Nhận định
• Hiệu Ứng Của Âm Và Thanh Trong Thơ Qua Lăng Kính Của Nhà Phê Bình Văn Học Bùi Vĩnh Phúc (Trần C. Trí)
• Bùi Vĩnh Phúc: Nhà Phê Bình Cùa Thơ Mộng, U Hiển (Phan Tấn Hải)
• Bùi Vĩnh Phúc Ra Mắt Sách: 9 Khuôn Mặt, 9 Phong Khí Văn Chương (Việt Báo)
• Bùi Vĩnh Phúc con đường từ những dòng khắc chữ (Trần Vũ)
• Bùi Vĩnh Phúc (Học Xá)
(phannguyenartist.blogspot.com/)
- Tản Mạn Văn Học Với Nhà Phê Bình Bùi Vĩnh Phúc (Nguyễn Mạnh Trinh & Nhã Lan)
- Những Nhà Phê Bình Văn Học Hải Ngoại (Bùi Công Thuần)
• Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (Bùi Vĩnh Phúc)
• Bùi Giáng (1926 - 1998) (Bùi Vĩnh Phúc)
• Nhớ Nguyễn Mộng Giác. Và tưởng nhớ một thời văn (Bùi Vĩnh Phúc)
• Trịnh Y Thư - Và khi về ngồi dưới những gốc nho biển (Bùi Vĩnh Phúc)
• Thế giới và những giấc mộng trong truyện của Vũ Quỳnh Hương (Bùi Vĩnh Phúc)
Văn chương Mai Thảo: biên địa của cảm xúc và cái đẹp, giao thoa với ý thức về đời sống
hai mươi năm văn học miền nam (1954 – 1975): phẩm tính và ý nghĩa
Đọc, giữa những ảnh xạ của phê bình
Bài viết trên mạng:
damau.org, tienve.org, hopluu.net
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
• Trò chuyện với dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |