|
Nguyễn Xuân Hoàng(7.7.1940 - 13.9.2014) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Khi giúp thực hiện tạp chí Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc phát hành vào tháng 5-2024, tôi đã được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho hay có nhà xuất bản và cả độc giả đề nghị ông viết “hồi ký”. Chẳng hạn như anh Nguyễn Hiền Đức, người độc giả đặc biệt quý mến anh, đã đánh máy và tặng lại bộ sưu tập những bài viết của ĐHN, có lần tỏ bày:
“... tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được đọc Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy. Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc giả chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.”
Nhưng cuối cùng, ông đã không viết hồi ký, mà chọn cách viết “Chuyện Hồi Đó” được nói đến trong Chương 1, “là những chuyện xưa, tích cũ, kể lại bởi một người có tuổi, già khú, có thể trong một buổi “trà dư tửu hậu” cùng bạn bè... Nó không phải là một sáng tác, một ghi chép (ký) theo thời gian. Tôi chỉ “nhìn” tôi một chút, rồi nhờ người khác nhìn tôi…
Tôi chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp, suy tư, học hỏi.
Tôi tri ân những con người, những vùng đất…
Tôi muốn người đọc không vì tò mò.”
Nếu “Tôi Học Phật” thu tóm con đường Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, “Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc” nghiêng về phần văn chương của ông thì “Chuyện Hồi Đó” chia sẻ cuộc đời của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc từ lúc cất tiếng khóc chào đời ở nhà bảo sanh Cô mụ Bé, dưới chân cầu sắt Phan Thiết vào một ngày tháng 8 năm 1940 (Canh Thìn) cho đến tuổi về chiều.
MỘT CHÚT VỀ ĐỖ HỒNG NGỌC
Bạn sẽ được biết về thời thơ ấu hồn nhiên hạnh phúc của ông bên ba má trong rừng già Hàm Tân, ngày được vui chơi trong khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, và đêm thì tuyệt diệu với những lúc văn nghệ ngoài trời mà chú bé ĐHN cũng là một thành viên biết ca hát, diễn kịch. Năm 8 tuổi, chú “được gởi vào học ở một trường đạo, gần nhà thờ trong rừng sâu. Thỉnh thoảng máy bay tới thì thầy trò chạy xuống suối trốn”... Học đến lớp ba trong rừng, và cứ học đi học lại lớp ba mãi vì không có lớp lớn hơn. Đến khi cha mất (1952), mẹ ông đưa 4 con, lớn nhất 12 tuổi (là ĐHN) nhỏ nhất 6 tháng, về tạm ở nhà Ngoại, rồi về Phan Thiết, ở nhà cô Hai trong chùa Hải Nam để có dịp chữa bệnh cho các con và cũng để cho chúng ăn học. Trong thời kỳ rất cơ cực này, ĐHN “bệnh triền miên vì sốt rét, suy dinh dưỡng nặng (12 tuổi mà chỉ cân nặng 25 kg!), vài ngày lại đi đò qua nhà thương thí chích thuốc. Nhà báo Nguiễn Ngu Í là em họ của mẹ ông (chị em con cô cậu ruột), từ Saigon về chùa thăm, thấy cháu thất học, nên dẫn tới gởi cho học ở trường Bạch Vân của người bạn là cô Hồ Thị Tiểu Sính, con gái ông Hồ Tá Bang, một nhà cải cách duy tân Việt Nam thời cận đại. Và cũng chính nhờ ở với cô Hai, người thích đọc sách đã nhờ cháu Ngọc đi mướn về cho đọc đã tạo cho chú bé ĐHN vốn tích lũy văn chương khi chú lén đọc hết cuốn sách dọc đường đi, thậm chí còn tóm tắt nội dung, các nhận xét của mình vào một cuốn vở học trò, dù bị cấm “vì con nít đọc truyện không tốt, mê, bỏ học”.
Năm 1954, ông học lớp Đệ Thất Phan Bội Châu (Phan Thiết) thì qua năm 1955 Lagi trở thành thủ phủ của tỉnh Bình Tuy mới lập. Lúc đó, gia đình cô Hai và gia đình ông quyết định dời về Lagi là quê cũ của họ hàng phía nội, khiến ông phải nghỉ học thêm 3 năm nữa vì Lagi chưa có trường trung học. Nơi đây, mẹ ông có tiệm bán hàng xén trong chợ Lagi (Chợ Mới) và ông trở thành một phụ tá đắc lực chuyên đi Sài Gòn bổ hàng về cho mẹ bán để một hôm tình cờ bắt gặp cuốn Kim chỉ nam của học sinh của Nguyễn Hiến Lê bày bán “xôn” trên vỉa hè. Lật xem vài trang thấy thích, chú bé ĐHN mua ngay và “cuốn sách nhỏ đó làm thay đổi đời chú”. Chú viết thư cho tác giả trình bày hoàn cảnh thực tại của mình phải bỏ học nhiều năm và xin ý kiến về việc có nên học nhảy lớp không? Được ông NHL khuyến khích, chú ‘thực hành theo hướng dẫn của sách, lập chương trình học ôn, ‘học nhảy lớp’ để đuổi kịp bạn bè. Thấy con học được và cũng nhờ bà con khuyến khích, năm 1960, mẹ ông đã đồng ý cho con “du học” Saigon. Không phụ công và lòng mong đợi của mẹ, cuối năm Đệ Nhất (1962) tại trường Võ Trường Toản Saigon, họ Đỗ được lãnh phần thưởng Danh dự toàn trường và đậu Tú Tài II dễ dàng. Một lần nữa, cậu Tú Ngọc lại tìm đến ông NHL để hỏi về lựa chọn ngành nghề khi băn khoăn đứng trước ngã ba đường: Y khoa, Sư phạm hay Văn khoa. Học giả họ Nguyễn đã cho lời khuyên thật tuyệt vời: “Cháu nên học Y, sau này giúp gia đình, giúp bà con cụ thể hơn, và nếu học giỏi có thể dạy học và khi hành nghề y chừng mươi năm, có kinh nghiệm sống, trải nhiều cảnh đời, nếu có tâm hồn và năng khiếu thì sẽ viết lách được, vì không thiếu gì những thầy thuốc là nhà văn như Tchekhov, Somerset Maugham, Cronin, Lỗ Tấn… ĐHN làm đúng như vậy và ông đã nổi tiếng trên cả ba lãnh vực này.
TUỔI THANH NIÊN & NGHỀ Y
ĐHN đứng thứ tám trong số những người đậu khóa thi Dự bị Y khoa đầu tiên (Année Pré-Médecine APM) (do trước đây chỉ cần đậu bằng PCB hoặc SPCN bên Đại học Khoa học thì có thể vào học thẳng Y khoa) được tổ chức năm 1962 với cả ngàn người ghi danh và tỷ lệ đậu chỉ vào khoảng 10%. Sau một năm học để lấy chứng chỉ APM ở Đại học Khoa học, sinh viên mới chính thức bước vào Y khoa Đại học đường Saigon học thêm 6 năm nữa. Ra trường, họ trở thành bác sĩ, và sau khi trình luận án sẽ được cấp bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia. Bên cạnh đó, ĐHN cũng ghi danh học Việt Hán bên Đại học Văn khoa và sau đó học Xã hội học tại Đại học Vạn Hạnh.
Ấn tượng nhất khi vào năm thứ nhất Y khoa đối với ông là buổi Giáo sư Khoa trưởng, Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, gặp gỡ các tân sinh viên đã nhắn nhủ: “Y khoa là một nghề cao quý nếu ta muốn cao quý, cũng là một nghề thấp hèn nếu ta muốn thấp hèn. Bác sĩ là một sinh viên Y khoa suốt đời. Trong khi hành nghề khó tránh khỏi đôi lúc ân hận nhưng đừng bao giờ để phải hối hận.” Lời Thầy dạy đã theo ông suốt cuộc đời.
Năm 26 tuổi, bị một tai nạn do bể kiếng gây cườm mắt dẫn tới mắt trái nhìn kém đi, không sao mổ xẻ chính xác được, vả lại ông cũng không thích ngoại khoa, sản khoa mà chỉ thích nhi khoa (Nội nhi), nên ông tập trung học về nhi khoa ngay từ đó. Năm 1968-69 ĐHN là “nội trú ủy nhiệm” ở khoa 2B Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn. Năm 1969, ông ra trường Y và năm 1970 nhận được văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia sau khi trình luận án đề tài Bệnh Sốt rét Cấp tính ở Trẻ em dưới sự hướng dẫn của GS Phan Đình Tuân cũng là Giám đốc BV Nhi Đồng SG. Năm 1971, ông về làm ở Dưỡng Đường Nhi khoa Trần Bình Trọng Chợ Lớn, trước nhà thờ Chợ Quán, của Bs Trần Văn Còn; đến năm 1973 lại trở về BV Nhi Đồng. Tại đây, ông đề nghị với Giám đốc - GS Phan Đình Tuân - tổ chức ngay một bộ phận Cấp cứu ở Phòng Khám Ngoại chẩn để cứu chữa kịp thời trẻ con bệnh nặng, khi ổn rồi mới đưa lên trại bệnh, tránh nguy cơ trẻ tử vong do bị lạc vì BV quá rộng, không được đưa đến đúng nơi khám kịp lúc. Đề nghị này được chấp thuận và ông được đề cử làm Trưởng Phòng. Theo thời gian, Phòng Cấp cứu đã chứng tỏ được hiệu quả rất tốt nên ngày càng được phát triển và về sau đã trở thành một Khoa quan trọng của bệnh viện Nhi. Ngoài ra ông có 10 năm (1972 – 1982) giảng dạy tại trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia ở Saigon mang những kiến thức y học lẫn cách ứng xử giao tiếp và cả bầu nhiệt huyết trao truyền cho những “Cô Mụ” tương lai nên được học trò quý mến.
ĐHN đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nhờ GS David Morley ở Anh gởi tặng cuốn See how they grow, năm 1982 ông thực hiện một Biểu đồ tăng trưởng, giúp trẻ khỏe mạnh, do chính bà mẹ theo dõi và săn sóc con mình, gồm gần như toàn bộ những kiến thức Nuôi con khỏe, chỉ vào trong một phiếu nhỏ, thực hiện được toàn bộ GOBIF mà ông đã Việt hóa thành BUSĂC (Biểu đồ tăng trưởng, Uống bù nước khi tiêu chảy, Sữa mẹ, Ăn dặm, Chủng ngừa) rất tiện dụng. Do nghiên cứu của UNICEF, “nơi nào có nhiều bà mẹ học lớp 5 thì tử lệ trẻ con tử vong thấp hơn nhiều nơi bà mẹ ít học, hay mù chữ”, ông nghĩ “quan trọng nhất không phải là cấp cứu giỏi, điều trị hay trên từng ca bệnh nặng của trẻ con mà phải nâng cao kiến thức bà mẹ, bởi chính bà mẹ mới gần gũi con, chăm sóc con tốt nhất, tránh mê tín dị đoan và biết phòng bệnh cho con...” Từ đó, ông viết các cuốn Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng, Nuôi Con, Săn sóc con em nơi xa thầy thuốc, Những bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em v.v… với lời lẽ đơn giản, hướng dẫn cụ thể với nhiều hình vẽ…
Sau khi dự Hội thảo của Thụy Điển tại Hà Nội về Primary Child Care (Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu cho Trẻ em) năm 1983, với phương pháp tiếp cận dựa vào Cộng đồng (Community-based approach), ông về thực hiện một Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu (SSSKBĐ) cho trẻ em ở Phường 13, Quận 6, Tp HCM, một phường ven đô, nhiều khó khăn thời đó, với sự hỗ trợ của BV Nhi Đồng. Sau 2 năm, đã có nhiều thay đổi, qua hệ thống Nhân viên sức khỏe cộng đồng thực hiện tốt chương trình Giáo dục sức khỏe, phối hợp với trường Phú Định, Y tế cơ sở… Rồi ông rời BV Nhi đồng về làm Giám đốc Trung Tâm Truyền Thông - Giáo dục sức khỏe Sở Y tế (1985-2005), tham gia trực tiếp làm Trưởng ban Thư ký của Chương trình xây dựng mô hình SSSKBĐ toàn diện của Sở Y tế với BS Dương Quang Trung chủ trì tại xã cù lao Hiệp Phước huyện Nhà Bè từ năm 1986. Đây là một chương trình tổng hợp, với sự tham gia cộng đồng, phối hợp liên ngành, và kỹ thuật học thích hợp, lấy phòng bệnh làm chính, gắn liền sức khỏe với phát triển kinh tế xã hội của địa phương, ít tốn kém lại có hiệu quả cao. Chương trình Hiệp Phước cũng góp phần nền móng xây dựng Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch nhằm đào tạo người thầy thuốc giỏi vừa Lâm sàng vừa Cộng đồng, gắn Sức khỏe và Phát triển. Ngoài ra, ông còn là Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y dược TP. HCM (1981-1995), và là Trưởng Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (1995-2008). Chức vụ cuối trước khi nghỉ hưu là Cố vấn Bộ môn Y Đức – Khoa học hành vi, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. HCM (2008-2016).
CHÚT VĂN CHƯƠNG CHỮ NGHĨA
Vốn mê văn thơ và từ gene di truyền, ĐHN đã là một thi sĩ trước khi trở thành bác sĩ. Có thơ đăng báo từ khi còn học trung học và khi học trường Y, ông cũng là một thành viên của nguyệt san Tình Thương, tờ báo của sinh viên Y khoa Đại học đường Sài Gòn (1964 – 1966).
Khởi viết từ 1960, ông đã có bài đi trên các báo và tạp chí: Bách Khoa, Mai, Tình Thương, Ý Thức, Tuổi Ngọc, Mây Hồng, Tuổi Trẻ, Phụ Nữ, Thanh Niên, Mực Tím, Áo Trắng, Doanh Nhân Saigon Cuối Tuần, Sài Gòn Tiếp Thị, Kiến Thức Ngày Nay, Văn Hóa Phật Giáo, Giác Ngộ, Từ Quang, Liễu Quán...
Ngoài làm thơ, ông còn viết sách một loạt sách y học bằng lời văn chia sẻ, tâm tình, dễ thấm vào lòng người, lại mang chất thơ, chẳng hạn, “Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…”, đã khiến học giả Nguyễn Hiến Lê nhận xét: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ thì luôn làm cho ta ngạc nhiên một cách thú vị”. Có thể kể: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò (1972), Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng (1974), Chăm Sóc Trẻ Từ Sơ Sinh Đến 3 Tuổi (1978), Những Bệnh Nguy Hiểm Thường Gặp Ở Trẻ Em, Săn Sóc Con Em Nơi Xa Thầy Thuốc (1986), Nuôi Con (1988), Nói Chuyện Sức Khỏe Với Tuổi Mới Lớn (1989), ...
Bên cạnh đó, ĐHN còn có những cuốn tùy bút, tạp văn chia sẻ những tâm tình và trải nghiệm của mình như Gió Heo May Đã Về (1997), Già Ơi… Chào Bạn! (1999), Thư Gởi Người Bận Rộn I (2005) & II (2011), Chẳng Cũng Khoái Ru? (2008), Nhớ Đến Một Người (2011), Ghi Chép Lang Thang (2014), Già Sao Cho Sướng? (2015), Một Hôm Gặp Lại (2016)...
Ông kể: “Tôi nhớ mình chưa từng học làm thơ. Lúc 16, 17 tuổi, tôi đã bắt đầu viết những câu thơ “trời ơi”. “Thơ” nó cứ tự nhiên đến như thế. Như không thôi đi được. Tôi không nghĩ thơ phải “làm” ra mà tự nhiên thơ tới. Nhiều khi không kịp viết, không kịp nhớ. Hình như nó được hun đúc nuôi dưỡng tự bao giờ...” Bạn đọc sẽ được thưởng thức những chia sẻ rất thú vị về thơ văn ĐHN qua các bài viết của Lê Minh Quốc, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Đỗ Thị Thanh Nga, Phạm Hiền Mây, Minh Lê, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Đức Tùng, Đỗ Trường, Trịnh Y Thư, Thảo Nhiên, Phạm Bảo Kim, Trần Vấn Lệ, Phạm Chu Sa, Phan Chính, Ý Nhi đan xen những tùy bút tâm đắc của ông: Nghĩ trong ngày 30 Tết, Nhớ Tiếng thu giữa Boston, “Em đi mau kẻo trễ chuyến phà đêm”, Kể thơ trên xe lửa, Những ngày hưu bận rộn...
NHỮNG GẦN GŨI THÂN THIẾT
Nơi đây ông đã ghi lại những thân tình riêng với Học giả Nguyễn Hiến Lê, Nhà báo Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư, Giáo sư Trần Văn Khê, Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, Bác sĩ Họa sĩ Dương Cẩm Chương, Thầy Thích Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ, cùng những chuyến đi thăm thắng cảnh quê hương cùng bà con bạn bè quen biết ở Lagi, Phan Thiết, hay Phú Yên, cũng như ngoài quê hương như xứ sở hoa anh đào, hay kangaroo, hoặc đất Phật Nepal.
PHẬT HỌC
BS ĐHN tiết lộ, “Từ gần 30 năm nay, tôi “nghiền ngẫm” kinh sách và “thực hành” những điều Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu với Bát Nhã Tâm Kinh, tôi lần theo “đường dây” từ Tâm Kinh đến Kim Cang, đến Pháp Hoa, Duy Ma Cật, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già, Hoa Nghiêm, Pháp Bảo Đàn Kinh… dĩ nhiên không thể không học và thực hành con đường căn bản từ Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên để chắt trong đó ra những then chốt cốt lõi và luôn luôn đặt những nghi vấn, Tại sao? Có gì hay? Làm cách nào?... Ứng dụng thế nào vào chính bản thân mình trong thời hiện đại, cách xa Phật đến hai ngàn sáu trăm năm...
Khi về già, tôi học Phật cách khác. Mỗi kinh sách, bài giảng dài dòng, thêm bớt… tôi chỉ học một câu, một chữ, một bài kệ và tự nghiền ngẫm, đặt câu hỏi, giải đáp và thực hành trong đời sống hàng ngày. Con đường học Phật phải là con đường an lạc, con đường “diệt khổ”, chớ nếu học Phật mà “khổ thêm” thì chắc học sai!
Ông đã xuất bản một số sách sau đây rất được bạn đọc hoan nghênh vì ông viết bằng văn phong rất dễ hiểu, nhẹ nhàng và đẹp như thơ: 1/ Nghĩ Từ Trái Tim (về Tâm Kinh Bát Nhã, 2003); 2/ Gươm Báu Trao Tay (về kinh Kim Cang, 2008) và bản dịch Anh ngữ “Handing Down Precious Sword” của Diệu Hạnh Giao Trinh (2015); 3/ Thấp Thoáng Lời Kinh (2012); 4/ Thiền và Sức khỏe (2013); 5/ Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (về kinh Pháp Hoa, 2014); 6/ Cõi Phật Đâu Xa (về kinh Duy Ma Cật, 2016); 7/ Thoảng Hương Sen (2018); 8/ Bông Hồng Cho Mẹ và những cảm nhận học Phật (2022); 9/ Tôi Học Phật (2023).
Trên đây chỉ là những chia sẻ rất tóm tắt của “Chuyện Hồi Đó” của tác giả Đỗ Hồng Ngọc do Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam xuất bản và Phanbook phát hành trong tháng 8/2025 vừa qua. Sách được bán ở các tiệm sách hoặc qua link:
https://tiki.vn/chuyen-hoi-do-do-hong-ngoc-phanbook-p278445353.html
Trần Thị Nguyệt Mai
11.9.2025
- Đỗ Hồng Ngọc và Chuyện Hồi Đó Trần Thị Nguyệt Mai Giới thiệu
- Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, Như Không Thôi Đi Được Trần Thị Nguyệt Mai Hồi ức
- Trần Hoài Thư: Mai Em Trần Thị Nguyệt Mai Tưởng niệm
- Lê Ký Thương, Khép Lại Những Hẹn Hò... Trần Thị Nguyệt Mai Tản mạn
- Tết Xưa Trần Thị Nguyệt Mai Hồi ức
- Nguyên Minh, một đời chung thủy với văn chương Trần Thị Nguyệt Mai Bút ký
- Việt Dương - Chân Dung Ngày Đó Bây Giờ: Thay Lời Tựa - Duyên Khởi Trần Thị Nguyệt Mai Thay lời tựa
- Những Kỷ Niệm Nơi Phòng Tranh Trương Vũ Trần Thị Nguyệt Mai Hồi ức
- Theo Dấu Ngô Thế Vinh Qua Những Trang Văn Trần Thị Nguyệt Mai Nhận định
- Chúc Mừng Quán Văn đạt tới số 100 Trần Thị Nguyệt Mai Giới thiệu
• Đỗ Hồng Ngọc và Chuyện Hồi Đó (Trần Thị Nguyệt Mai)
• Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, Như Không Thôi Đi Được (Trần Thị Nguyệt Mai)
• Nguyên Giác: Đọc Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt về Đỗ Nghê (Phan Tấn Hải)
• Thơ Đỗ Nghê (Thu Thủy)
• Đỗ Hồng Ngọc, từ "Tình Người" đến "Thư Cho Bé Sơ Sinh" (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Đỗ Hồng Ngọc bất hạnh với thi ca? (Du Tử Lê)
Đỗ Hồng Ngọc, khói trời phương Đông (Nguyễn Lệ Uyên)
Phút tâm giao với nhà thơ-bác sĩ ĐỖ HỒNG NGỌC (Ngô Nguyên Nghiễm)
(Nguyễn Xuân Thiệp)
Trò chuyện với bác sĩ, nhà thơ đỗ hồng ngọc qua những lá thư từ kinh xáng (Hai Trầu)
Đỗ Hồng Ngọc, thơ và thiền song sinh? (Du Tử Lê)
Đọc “Về Thu Xếp Lại…” của Đỗ Hồng Ngọc (Nguyên Giác)
Đọc Lại Sách: Già Ơi … Chào Bạn của BS Đỗ Hồng Ngọc (Minh Tâm Xuân Đỗ)
“Nắng vàng thơm quê nhà” (Lê Ngọc Trác)
• Lời Bạt Thơ Duyên Lê Chiều Giang Nguyễn Thị Khánh Minh (Đỗ Hồng Ngọc)
• Đọc thơ bạn thơ: “Sương khói trăm năm” của Võ Tấn Khanh (Đỗ Hồng Ngọc)
• Ông Nguyễn Hiến Lê Và Tôi (Đỗ Hồng Ngọc)
Trang nhà: dohongngoc.com
Bài viết trên mạng:
• Đỗ Hồng Ngọc và Chuyện Hồi Đó (Trần Thị Nguyệt Mai)
• Về câu kết 2 bài thơ 'Thăm Bạn' và 'Đồng Vọng' của nhà thơ Đồng Thị Chúc (Đặng Xuân Xuyến)
• Tiễn Thâm Tâm (Tuệ Sỹ)
• Về Truyện Ngắn Của Lê Mai (Đặng Xuân Xuyến)
• Hoa Mimosa (Quang Già Cơ)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |