|
Bùi Giáng(17.12.1926 - 7.10.1998) | Du Tử Lê(.0.1942 - 7.10.2019) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Bài liên quan:
- Tưởng nhớ Trần Miên Trường, người thơ đã ngủ giấc thiên thu (Nguyễn Thị Mỹ Thanh)
Anh dùng hai bút hiệu: Đỗ Tư Long, tên thật, và Trần Miên Trường. Sau này tôi tự hỏi, sao anh lại lấy bút hiệu Trần Miên Trường, để rồi ngủ giấc thiên thu?
Nơi đây, những chiều thứ Bảy, hầu như quá quen với những cây bút dành cho tuổi học trò và với những độc giả thường xuyên đến thăm. Đó là phòng họp của Tòa soạn Tuổi Hoa, nằm cùng một khu vực với Nhà sách Đức Mẹ. Gọi là phòng họp nhưng thật ra là một căn phòng nhỏ, thường ngày chỉ có hai, ba người ngồi làm việc, thậm chí nhiều hôm chỉ có một người. Vậy mà khi họp mặt lại vui lắm! Đó là nơi mọi người quen nhau đến, và đến làm quen với nhau. Mới đầu có một chút e dè, nhưng sau thì chan hòa như bạn thân.
Và như thế, Trần Miên Trường đã là bạn thân của Tuổi Hoa trước cả tôi. Hơn thế nữa, anh có một giọng cười hồn nhiên, sảng khoái, như thể cuộc đời vốn dễ dàng với mình. Ai có e ngại cách mấy, nghe giọng cười của anh sẽ thấy mình được hồn nhiên theo cùng.
Quê nhà của Trần Miên Trường ở tận ngoài Huế. Những lần về hậu cứ, anh đều ghé tòa soạn Tuổi Hoa ở đường Kỳ Đồng, Sài Gòn. Đặt chiếc mũ "bê-rê” đỏ lên bàn, và thế là người lính tạm trở về đời sống dân sự. Gặp ngày thường, anh ngồi làm thơ, gửi bài, và trò chuyện cùng “cô cò” Mỹ Thanh. Gặp thứ Bảy, ôi thôi họp mặt vui vẻ, chuyện trò râm ran.
Tôi từng nghĩ, Long làm thơ như người ta thở. Nghĩ sao viết vậy, nhưng... ra thơ.
Nhà thơ trẻ, viết rất đều và rất hăng, từ trước Tết Mậu Thân. Những bài thơ thường viết dành cho các bé, và cho tuổi học trò. Những vần thơ cũng dành cho đời lính, cho những ưu tư khắc khoải của những người tham dự vào cuộc chiến. Hầu như số bán nguyệt san nào cũng có bài của Đỗ Tư Long - Trần Miên Trường.
Ngày 6 tháng Năm, năm 1970, cánh dù đã rơi trên chiến trường Campuchia. Nhà thơ trẻ được mười chín tuổi. Giọng cười hồn nhiên đã tắt.
Chân dung của anh: chân dung của vạn người lính.
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Tháng 5, 2022
Thơ Đỗ Tự Long - Trần Miên Trường
HẸN XƯA TRONG MẶT TRỜI BUỒN
Hơi thở học trò vô tội
Bọn mình sưởi ấm cho nhau
Mai tao đi vào quân đội
Bọn mình, thôi, giã từ nhau.
Những ngón tay gầy đen nhánh
Một lần gói trọn niềm thương
Mai tạo chim trời vỗ cánh
Thơ ngây rồi cũng lên đường.
Son giá ngày xanh một thuở
Mái trường phong kín buồn vui
Xa rồi bút nghiên sách vở
Tao đi cảnh luống ngậm ngùi.
Từ đó bọn mình cách trở
Gió mưa lạnh tuổi trăng sao
Trong hoang liêu buồn nhắc nhở
Thư từ nhớ viết cho tao.
Mai tao đi vào quân đội
Hành trang nặng trĩu tủi hờn
Súng gươm mới mười lăm tuổi
Vào đời chưa thấy lớn khôn.
Hẹn xưa một lần chưa nhạt
“Long mày đi trước bình yên
Chờ bọn tao về họp mặt
Một ngày từ giã bút nghiên.”
Trong mặt trời buồn nhắc nhở
Hẹn xưa đã hiện hữu rồi
Bọn mình chừ chung hơi thở
Súng gươm ấm lại môi cười.
Ngày mai nắng mới reo ngoài nội
Thanh bình trăm hoa nở đua duyên
Bọn mình, thôi, giã từ quân đội
Trả súng gươm về với bút nghiên.
Trần Miên Trường (1969)
Thư Quán Bản Thảo số 99 tháng 7-2022
*
Tiếc thương
tranh bìa TH của họa sĩ ViVi
VIẾT CHO QUYÊN TRONG CƠN SỐT
Thôi anh tuổi trẻ đi rồi
Bàn tay vụng dại níu đời bánh xe
Hình như trời đã sang hè
Nên môi mặn chát biển về chia ly
Thôi rồi tuổi trẻ bỏ đi
Xác thân tôi đó còn gì nữa đây
Nỗi buồn vi vút qua mây
Mắt sâu đã đỏ những ngày ưu tư
Nhìn thời gian quá mỏi nhừ
Và tôi cũng quá mỏi nhừ bi thương
Nhớ về tuổi nhỏ thiên đường
Nhớ về bóng mát vô thường bày tay
Mà nghe nghiệp lớn lưu đày
Linh hồn tôi cũng tháng ngày nhớ mong
Rêu phong lưng đá ngùi trông
Vết thương lở lói ẩm dòng tháng năm
Nghe ra rạn nứt âm thầm
Bóng miên dạng trắng hao tầm vóc sương
Và nghe giấc ngủ hoang đường
Tôi mơ mình bước trên đường hoang sơ
Trăm con kỷ niệm vỗ bờ
Chừ nghe ngày tháng trơ trơ cuộc lòng
(Tuổi Hoa số 72, ra ngày 1-7-1967)
MÙA XUÂN TIỀN TUYẾN
Tôi nhớ mùa xuân tiền tuyến
Khi ngồi nghe súng dư âm
Mùa xuân của rừng của suối
Của người gác núi âm thầm.
Hoa mai khuôn vàng nét thắm
Mấy hàng cỏ dại xanh um
Loài chim trùng khơi nước mặn
Về đây mừng tuổi cho rừng
Bướm say tình hoa mới nở
Chập chờn tóc liễu xanh mơ
Mây se nắng vàng rực rỡ
Thùy dương sẵn tiếng mấy bờ.
Tôi nhớ mùa xuân tiền tuyến
Mùa xuân của lá của hoa
Mùa xuân trĩu đầy tâm sự
Của người gác núi xa nhà
Tôi nhớ mùa xuân tiền tuyến
Khi nhìn ánh lửa miền xa
Mùa xuân của người gác núi
Thức đêm gìn giữ sơn hà
Tôi nhớ mùa xuân tiền tuyến
Khi nhìn phương cũ xa xăm
Mùa xuân của tình luyến mến
Dạt dào đỉnh ngọc hương trầm
Tôi yêu mùa xuân tiền tuyến
Nên thương đất mẹ não nùng
Và mùa xuân này bất diệt
Của tôi và của núi rừng
(Tuổi Hoa số 85-86, xuân Mậu Thân, ra ngày 15-1 và 1-2-1968)
KHI VỀ THĂM TÒA SOẠN
Chiều qua phố lạ – Sàigòn
Chân ngơ ngác bởi mình còn chưa quen
Từ xưa hẹn với chim Quyên
Một ngày nào đó Trần Miên Trường về
Thăm anh trong nắng vàng hoe
Hẹn xưa chừ rộn trên lề bước chân
Phong sương nên cũng ngại ngần
Ba mươi tám đó Kỳ Đồng ở đây
Gió rong hạt nắng vàng cây
Buổi chiều trời đuổi mây bay ngút ngàn
Mình từ biển núi quan san
Theo chân đơn vị hành quân đêm ngày
Hai mươi bốn tiếng cầm tay
Miền xa đi phép thăm ai bây giờ
Từ ngày khói lửa ven đô
Ngỡ rằng thôi hết ước mơ trong hồn
Chừ con lộ nhỏ Kỳ Đồng
Mình về nhận diện vườn hồng Tuổi Hoa
Gác chuông thánh thót hiền hòa
Ý uyên nguyên đậm nét ngà ngọc ai
Rằn ri xóm đạo lạc loài
Mình nao nao bước tóc tai bồi hồi
Nụ cười chợt nở trên môi
Chim Quyên ngậm nắng bên trời cánh mây
*
Mặt trời lịm tắt về tây
Gió rền rĩ chết bên này non cao
Chia tay nhau hẹn mai sau
Oanh vàng rộn tiếng xôn xao trên cành
Và quê hương đẹp thanh bình
Tuổi Hoa sống mãi cho mình về thăm
Chiều qua phố lạ một lần
Rồi mai mốt lại phong trần kiếp trai
(Tuổi Hoa số 95, ra ngày 15-9-1968)
TRÊN THIÊN ĐƯỜNG KÝ ỨC
Anh đứng lại trên thiên đường ký ức
Để nghe hồn nuối tiếc tuổi thơ bay
Để nghe thương và nhớ nắng son gầy
Màu nắng lụa ngày xưa anh rất mến
Lòng thời gian đã bao lần xao xuyến
Đã bao lần chua xót đến đau thương
Từ khi anh Tuổi Trẻ bỏ lên đường
Làm người lớn mà hồn chưa thấy lớn.
Tóc vẫn xanh như mây trời buổi sớm
Môi vẫn hồng như màu nắng vừa lên
Những nụ mơ trong đáy mắt ngoan hiền
Chưa kết trái đã rung tàn theo gió.
Cửa cuộc đời từ khi tay lỡ gõ
Là đắng cay mất mát bủa quanh hồn
Là chim không về khi bóng xế hoàng hôn
Hoa không nở khi trời ươm nắng lụa
Bạn bè anh những người đồng trang lứa
Vẫn yên vui trong bóng mát học đường
Thắp ước mơ biển mộng thắm bay hương
Trên trang vở còn thơm mùi giấy mới
Chỉ riêng mình anh đầu tăm mặt tối
Phải bon chen từng miếng áo miếng cơm
Phải điêu ngoa miệng lưỡi để nuôi thân
Và phải khóc phải cười trong giả dối
Từ cơm áo dạy điêu ngoa miệng lưỡi
Là thơ ngây không còn nữa trong hồn
Là tóc trên đầu ngả trắng màu sương
Như mặc niệm tuổi thơ mình đã mất
… Anh đứng lại trên thiên đường ký ức.
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 131, ra ngày 15-6-1970)
TRẦN MIÊN TRƯỜNG
- Đi tìm người thương binh Nguyễn Thi Mỹ Thanh Truyện ngắn
- Nhớ Người Thơ Nhà Binh Đỗ Tư Long-Trần Miên Trường Nguyễn Thị Mỹ Thanh Hồi ức
- Điều Mẹ Không Quên Nguyễn Thị Mỹ Thanh Truyện ngắn
• Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc (Vương Trùng Dương)
• Trịnh Y Thư: Những mối tình trong “Đường về thủy phủ” (Phan Tấn Hải)
• Đọc sách “Sài Gòn không phải ngày hôm qua” của Phúc Tiến (Nguyễn Văn Tuấn)
• Đọc “Cùng nhau đất trời” của Khánh Trường (Song Thao)
• Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Đỗ Anh Hoa)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |