|
Bùi Giáng(17.12.1926 - 7.10.1998) | Du Tử Lê(.0.1942 - 7.10.2019) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà thơ Quách Tấn
(1910 - 21.12.1992)
Hiện nay gia đình nhà thơ Quách Tấn còn trân trọng lưu giữ một chiếc hộp chứa 4 món đồ mà thuở sinh tiền nhà thơ đã xem như báu vật. Đó là tập sách Tô Văn Trung Thi Hiệp Chú, tập Lữ Đường Thi, một khúc sừng sơn ngưu, cùng ba lá mận khô. Với đời thường, giữa cuộc sống bon chen tay làm hàm nhai, những món đồ nầy chẳng đáng được xem là báu vật. Nhưng đối với nhà thơ, mỗi báu vật của ông đã có một mảnh đời luôn sống bên cạnh ông, cùng đi với ông trong khung trời của tâm hồn Mùa Cổ Điển.
Báu vật thứ nhất : Ba lá mận khô, những chiếc lá cuối cùng của cây mận trước nhà. Nhà ông ở trước chợ Đầm Nha Trang, nơi xôn xao kẻ bán người mua, nhưng là nơi các bạn thơ một thời của ông thường lui tới. Tán lá cây mận trước nhà ông đã từng là nơi quây quần của những tâm hồn thanh thoát trước chợ đời. Trước khi rũ héo, cây mận kịp để lại cho ông 3 cánh lá, đem đến cho ông những suy tư thân phận để ghi lại Bóng Ngày Qua.
Báu vật thứ hai : Một khúc sừng tê, đó là món quà mà học giả Nguyễn Hiến Lê đã tặng cho ông chữa bệnh mắt năm 1973. Nhà thơ đã trân trọng gói kỹ, ghi lại ngoài bì : “Vật kỷ niệm quý hơn vàng ngọc Xứ Trầm”. Đối với ông, ông quý vật “không ở giá trị vật chất hay công dụng của chúng, mà quý những ân tình, những hình ảnh chúng chứa đựng bên trong …”
Chỉ với hai món đồ nầy đã thấy ở nhà thơ có một tấm chân tình đối với bằng hữu, với kỷ niệm, với cuộc đời … Báu vật của ông chính là tấc lòng của những bạn văn chương. Thật quý giá cho những ai là bạn văn của ông đã để lại cho ông những dấu tích mà ông trân trọng gìn giữ cho đến cuối cuộc đời, gìn giữ cho đến xa sau thể hiện trong văn, trong thơ của ông.
Lớp hậu bối chúng tôi từ xưa đã ngưỡng vọng ông dưới hình ảnh bậc trưởng thượng của quê mình, ông đã có những bài viết về quê hương mà càng đọc càng tự hào non nước nơi mình chôn nhau cắt rốn. Thuở còn đi học, chúng tôi được chính ông kể cho nghe những giai thoại về Hát Bội Bình Định, đâu quãng cuối năm 1973, ông có về thăm quê, ghé lại Trường Trung Học Quang Trung Bình Khê để nói chuyện với thế hệ trẻ chúng tôi. Bước vào đời, tôi có duyên được đọc một vài bài thơ của ông mới vừa viết xong. Những năm sau 1975, Thầy Nguyễn Đồng, người anh em đồng hao của ông lúc ấy đã nghỉ giảng dạy, tôi thỉnh thoảng xuống Phú Phong thăm Thầy, có khi Thầy cho xem và nhờ mang giúp những bài thơ mới viết ấy của ông về cho Bác họ ở nhà là Mai Đình Nguyễn Hoài Văn (cũng là bạn văn của ông). Gần đây, tôi lại cũng có may mắn đọc được những Thi Thoại Hương Vườn Cũ của ông trên trang Thư Viện Quách Tấn (quachtan.net), trang Web chuyên lưu trử thông tin và tài liệu liên quan đến nhà thơ. Tôi đã từng dùng một ít tư liệu, thi thoại đó để minh họa một vài sự kiện liên quan đến đất Bình Khê, đất Bình Định. Nay trang Web Thư Viện Quách Tấn quý giá nầy đã hạn chế truy cập công khai.
Trong Quách Tấn, tôi thấy cả một khung trời xưa cũ ngập tràn nỗi hoài cổ. Nỗi hoài vọng về ngày xưa không giúp có được cuộc sống sung túc cho con người, nhưng nó giúp cho con người có được niềm tin yêu, có khoảng lặng bình yên để đứng vững với cuộc đời. Có lẽ có cùng chút đồng điệu nầy nên duyên may đã đưa đẩy cho tôi tiếp cận được tư liệu liên quan đến món đồ mà nhà thơ Quách Tấn đã lưu giữ như báu vật là tập Tô Văn Trung Thi Hiệp Chú. Gia đình của người đã tặng cho ông bộ sách Tô Văn Trung đang có một phần hồi ức của ông viết năm 1971. Những trang hồi ức này đến nay chưa được công bố. Đọc được những trang tư liệu nầy mới thấy khối tình chất chứa trong ông, hiểu được vì sao một tập sách nhỏ bé lại là báu vật của ông.
Khoảng sau năm 1945, gia đình ông từ Nha Trang tản cư về Phú Phong tránh giặc. Sống ở quê nhà Bình Định lần nầy, ông kết bạn vong niên với Tam Hà – Trần Thiếu Du người thôn Thuận Nghĩa, cùng chung một huyện với ông. Theo hồi ức của ông : “… Anh Tam Hà lớn hơn tôi đến 10 tuổi. Thời Pháp thuộc tham gia tổ chức cách mạng của Đồng Sỹ Bình và Bửu Đình, bị bắt giam ở Lao Bảo ngót 10 năm. Năm 1936, Mặt Trận Bình Dân Pháp lên cầm quyền, được phóng thích, về nhà vui thú điền viên …”
Cụ Tam Hà sinh năm Tân Sửu 1901, là con cháu họ Trần ở Bình Khê có mối quan hệ với triều đại Nhà Tây Sơn. Sau khi ở Lao Bảo về, cụ tham gia biên tập cho tờ Nhành Lúa, tờ báo chống chính quyền bảo hộ thời Pháp thuộc. Tờ Nhành Lúa tòa soạn đặt tại Huế hoạt động chỉ trong vòng 2 tháng, ra được số thứ 9 ngày 19/3/1937 thì bị Pháp đình bản, nhưng đã gây được tiếng vang trong giới thanh niên ở Trung Kỳ thời ấy. Cụ Tam Hà không những vững Pháp Văn, mà còn thông thạo cả Hoa Văn. Nói như Quách Tấn thì cụ tuy không lều chiếu vào trường thi, song Ngũ Kinh Tứ Thư đều thông suốt, các nhà nho ở địa phương đều nể vì. Chính ở kiến văn nền Nho học của cụ Tam Hà và tâm hồn cổ thi của Quách Tấn đã đưa hai người thành bạn tâm giao. Mối tâm giao đã xóa bỏ khoảng cách niên kỷ giữa hai người trong khi đàm luận văn thơ với nhau. Chính cụ Tam Hà là người đã giúp cho Quách Tấn những hiểu biết rộng hơn về Hán ngữ, ít nhiều đã cung cấp cho Quách Tấn những giai thoại văn thơ xưa.
Tháng chạp năm Bính Tuất, khoảng giữa tháng 1 năm 1947, cụ Tam Hà cùng cậu tiểu đồng mang đến tặng cho Quách Tấn bộ Tô Văn Trung gồm 20 quyển in trên giấy quyến làm quà Tết. Sau nầy Quách Tấn thố lộ rằng nhờ bộ sách ấy mà ông biết rõ hơn thân thế và sự nghiệp văn chương, thi tài, bút pháp của Tô Đông Pha, nhờ những chú giải trong bộ sách ấy mà ông biết thêm, biết nhiều về những điển cố, những sự tích văn thơ xưa. Đáp lại thịnh tình của cụ Tam Hà, ngày nguyên đán năm ấy, Đinh Hợi 1947, Quách Tấn có bài thơ viết trên lụa điều tặng cho cụ Tam Hà :
TẠ LÒNG
Quà tết nâng niu chồng sách cổ
Mở chồng sách cổ mở lòng anh …
Muôn dòng thơ chảy long lanh ngọc
Nghìn dặm xuân đưa bát ngát tình
Ngọn bút yên hà xuân điểm thắm
Mối duyên bình thủy mắt dồn xanh
Tạ lòng biết lấy chi mà tạ ?
Tâm sự người xưa, mình với mình.
Chính cụ Tam Hà – Trần Thiếu Du cũng là người đã giúp cho Quách Tấn ra công sức tập làm Văn tế. Hồi ức của Quách Tấn có đoạn chép :
………
“ Văn tế là môn sở trường của anh Tam Hà. Từ ngày ở Lao Bảo về, ảnh trổ nghề làm Thầy lễ. Trong quận Bình Khê mỗi lần có tế thần, có đám tang, người ta thường rước ảnh đến viết văn và đọc chúc.
Vào khoảng cuối năm Tuất âm lịch, đầu năm dương lịch 1947, bộ đội kháng chiến đóng ở Kiên Mỹ (Bình Khê) đến xin ảnh một bài Văn Tế Trận Vong Chiến Sĩ. Ảnh lại đưa đến tôi, lấy cớ rằng tôi là danh sĩ nên phải nhượng. Từ trước tôi chưa hề làm một bài văn tế nào. Nhưng vì sợ thất thể diện trước người lạ, nên tôi phải nhận lời. Rồi cố gắng, không ngờ lại thành công. Từ ấy ảnh thường nói với bạn quen :
– Không ngờ lão Tấn thơ giỏi mà văn tế cũng tài ! Học ai không biết ? Lão làm mình hết dóc nổi.
Té ra anh Tam Hà tập tôi làm văn tế …”
………
Như vậy có thể xác định là bài Văn Tế Trận Vong Chiến Sĩ cho bộ đội kháng chiến ở Bình Khê năm 1947 là bài đầu tay của Quách Tấn viết cho thể loại nầy. Bài văn tế ấy, cụ Tam Hà – Trần Thiếu Du đã tạo sự đùn đẩy để Quách Tấn ra công trên văn đàn. Nhưng cũng ngậm ngùi thay, tập làm được văn tế, chẳng bao lâu sau Quách Tấn phải chấp bút viết bài văn tế cho chính cụ Tam Hà !
Mùa hạ năm 1947, trong một chuyến tản cư tránh giặc về vùng Thuận Ninh, cụ Tam Hà vướng phải nước độc rừng thiêng sinh bệnh, ngày hồi cư về đến nhà thì mất. Cụ Tam Hà mất sớm, song thân già yếu khóc măng non, vợ yếu như liễu chiều chích nhánh bận bịu ba đứa con thơ, trong đó đứa trai út chỉ mới vừa ba tháng tuổi … Hình ảnh nầy hiển hiện rõ trong bài Khóc Bạn của Quách Tấn :
KHÓC BẠN
Mười mấy năm trời dạ ước ao …
Điềm hùng mới ứng giấc chiêm bao
Nén hương cúng Phật lòng chưa thỏa
Cánh hạc về Tiên bạn nỡ nào ?
Chích nhánh ủ ê chiều liễu yếu
Khóc măng quằn quại bóng tre cao
Nhớ ngày dương cửu chung cay đắng
Tiếng cuốc canh khuya luống nghẹn ngào !
Vợ của cụ Tam Hà là em gái của chí sĩ Đồng Sỹ Bình, người xứ Huế sông Hương núi Ngự về làm dâu vùng núi Tượng, non Trưng của Bình Định. Qua hồi ức của Quách Tấn, đối đáp qua lại giữa vợ chồng với nhau, bà Tam Hà không hổ danh vốn dòng gia thế đất thần kinh. Chồng mất, bà gánh vác gia đình vượt bao nỗi khó khăn thời loạn lạc. Ngày cúng Tiểu tường (tuần giáp năm) cụ Tam Hà, Quách Tấn viết trong Hồi ký :
………
“Ngày Tiểu tường của ảnh, nhân đồng bào đã hồi cư, tàu bay cũng thưa bớt khủng bố, tôi đề nghị cùng chị Tam Hà tổ chức buổi lễ cho long trọng để làm vui lòng người chín suối. Và soạn cho chĩ một bài văn tế, cho tôi một bài, nhờ anh Hương Sơn (Hương Sơn – Nguyễn Đình Mẫn) đọc …”
………
Phải nói bài văn mà Quách Tấn chấp bút soạn cho Bà Tam Hà đứng ra tế chồng, tạm gọi là bài Văn Tế Chồng, là một tuyệt bút trong các bài văn tế được biết của Quách Tấn. Viết cho tình bạn, bút pháp của ông trào ngập khối tình, lướt qua khỏi những bỡ ngỡ, ngập ngừng của bước đầu tập làm Văn tế :
VĂN TẾ CHỒNG
Hỡi ôi,
Sông gãy cầu ô,
Núi gầy thân đá !
Cõi trần hạc mơ màng một giấc, có có không không;
Máy huyền vi tráo trở trăm chiều, sanh sanh hóa hóa.
Nhớ lương nhân xưa :
Nghiệp dõi Châu Trình,
Thú quen Vương Tạ.
Trên nước nhà trung hiếu hai vai,
Ngoài bạn lứa tín thành một dạ.
Gốc Tử nhớ ngày bóng ngã, miền Hương giang phận xót liễu bồ;
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa, trời Tượng lĩnh thân nương tòng bá.
Cuộc phong lãng mười năm về trước, nhắc làm chi cho ruột thêm đau !
Cảnh gia viên mấy độ gần đây, vun bén lại xem tình chút thỏa.
Ngựa hồng khớp bạc, hôm sớm đi về;
Ruộng lúa soi dâu, tháng ngày thong thả.
Nhìn dưới gối trên mười đông, chữ thập vô dù thốt,
nàng Ban ả Tạ, giá văn chương trước mắt những mơ màng;
Tựa bên nôi gần ba tháng, câu nhất hữu thường ngâm,
non quế sân hòe, vẻ xiêm áo trong mơ cười hỉ hả.
Lòng những chắc trời thương đất tưởng, thú phong lưu còn đãi khách hào hoa;
Nào hay đâu gió tạt sương sa, miền cố thổ bỗng cướp người phong nhã.
Ôi !
Tuổi chửa bao lăm,
Trời sao vội vã !?
Con thơ vợ dại, biết nhờ ai tủ nắng che mưa !
Mẹ yếu cha già, đành thiếu kẻ nằm băng khóc giá.
Thảm thiết bấy phòng khuê đêm tối, giấc bàng hoàng trở dậy hỏi Cha đâu … ?
Não nùng thay cửa vắng ngày chiều, thân lảo đảo thở ra Trẻ đã … !
Thềm đãi nguyệt mưa chan khóm trúc, tơi bời giọt lệ Tương Phi !
Gác thừa lương dế rỉ hơi sương, vắng vẻ cung đàn Tư Mã !
Ba thước đất không xa mà cách, nẻo thăm tìm cánh bướm bơ vơ !
Bốn phương trời về đó là đâu, xe ngày tháng bóng câu giục giã !
Đen mịt mịt bóng mây trủng quạnh, mới ngày nào tiếng nhạn thương thu !
Xanh dờn dờn sắc cỏ gò cao, kìa nay đã hồn quyên khóc hạ !
Nhìn lui ngó tới, cảnh khó làm khuây;
Thương dập nhớ dồn, tình khôn xiết tả.
Nay
Tuần tiểu tường vừa đến, chút tinh thành bát nước nén hương,
Miền âm cảnh có hay, về phù hộ con thơ vợ góa.
Có thiêng xin chứng.
Án Mạnh Thị nén hương bát nước, sóng khơi sầu, than đốt tủi,
thoảng hơi may tâm sự luống tơi bời
Đàn Chu Lang phím trúc đường tơ, thương lạc điệu, nhớ chùng giây,
nghe tiếng dế tình hoài thêm bức rức
Mai trắng phau phau miền Lộc Đỗng, bẽ bàng thay ai kẻ thân tri !
Tre xanh dợn dợn bến Côn Giang, lơ lửng đấy bóng người tương thức.
Đưa nếp tử mơ màng còn nhớ lúc, ruột tằm lau chưa ráo lệ năm vần !
Vút xe tiên thắm thoát đã đầy năm, hồn cuốc lại khêu thêm sầu một bức !
Người chin suối thấu trời truy ức, bước theo về ngọn gió hiu hiu,
Rượu ba tuần lóng giọt tinh thành, niềm tưởng tới mùi hương phức phức.
Phục duy
Thượng hưởng
Một áng văn hay, một bài thơ ý vị khi trong nó có hình ảnh của một giai thoại.
Một món đồ kỷ niệm đáng quý khi trong nó có bóng dáng của tình thương.
Tập sách Tô Văn Trung mà Quách Tấn đã xem như báu vật, vì bên trong của nó đã có chứa bóng hình của người bạn vong niên ở quê nhà thời loạn lạc.
Đọc được những thi thoại trong di cảo của Quách Tấn, biết được cội nguồn món báu vật của ông, thật cảm khái !
Ngậm ngùi hơn, bộ sách 20 tập ấy, may mà còn lại được 1 cuốn!
Từ năm cụ Tam Hà giã biệt trần đời, kháng chiến, tản cư, chạy giặc liên miên … Quách Tấn vẫn mang theo bên mình bộ sách Tô Văn Trung. Đến năm 1953, gia đình kiệt sản, một nải bạc tín phiếu chỉ mua được con cá mòi, vợ đau con đói … Ông cầm lòng bán bộ sách. Bán cho cơ quan văn hóa để còn hy vọng chuộc lại, nhưng ai đâu ngó ngàng đến, ông đành phải bán cho người ta làm giấy quấn thuốc hút để lấy 100 kg lúa. Đau lòng, ông đi chuộc lại 1 cuốn với tâm niệm sau nầy để lại lời trăn trối cho cháu con : “Không được bán sách !”
Cuộc đời của Quách Tấn gặp khá nhiều truân chuyên như câu thơ của ông :
“Sách quý bán cho đời hút thuốc
Thân tàn để mặc chúng làm bia …”
Nhưng ở trong ông chất chứa những nỗi niềm, thể hiện Một Tấm Lòng không chỉ là tiêu đề của tập thơ đầu tay in năm 1939, ở trong ông có Một Tấm Lòng hiển hiện rõ hình ảnh của lớp Nho sĩ còn sót lại trên cõi tạm thế gian. Những thi thoại trong văn thơ của ông để lại cho đời luôn mang những thân phận đáng để người hữu tình suy gẫm …
Lan nguyệt, Nhâm Thìn niên
Trường Nghị
Chân thành cảm ơn nhà văn Quách Giao và anh Trần Thiếu Bảo – con của cụ Tam Hà, đã cho tôi đọc được phần hồi ức có thủ bút của thi sĩ Quách Tấn mà nhà văn Quách Giao đã gởi tặng cho gia đình anh.
Nam Thi
Tôi xin phép được là người viết “lời bình” đầu tiên – nếu không có ai nhanh tay hơn – để cảm ơn nhà nghiên cứu Trường Nghị, bởi trong bài “Thi thoại…” nầy về cố thi sỹ Quách Tấn có nhắc đến cha tôi, cụ Tam Hà Trần Thiếu Du. Tôi đã dâng một nén hương lên cha tôi và cụ Quách trước khi viết những dòng nầy.
Cha tôi là một người yêu văn chương nhưng thời trai trẻ mãi “làm quốc sự”, bị tù đày cả chục năm ở Lao Bảo nên sự nghiệp văn chương ít người biết đến. Ngay đến tận 65 năm sau ngày cụ mất mới có bài báo nầy của Trường Nghị nhắc đến tên ông khi viết về cụ Quách.
Quách Tấn với cha tôi là người cùng làng Thuận Nghĩa. Mẹ của cụ Quách là người họ Trần của tôi thuộc chính phái Trường Định, cùng thế hệ thứ 11 với cha tôi. Lẽ ra cụ Quách gọi cha tôi bằng “cậu”, nhưng vì mối thâm giao văn chương thi phú nên xem nhau là bạn, coi nhau như anh em. Vì mối tình tri âm ấy, trong hồi ký của mình cụ đã dành mấy chục trang để viết về cha tôi, thuật lại những cuộc luận đàm văn chương thâu đêm ở Phú Ân, thể hiện qua bài “VIẾNG MỘ BẠN” in trong tập “Mùa Cổ Điển”, sau đây:
Vừa mới hôm nào em với anh
Mở chồng sách cổ vạc sang canh
Nghìn thu tâm sự thương người trước
Một mối văn chương cảm phận mình
Chừ đã cách xa trời dị lộ
Biết tìm đâu gặp đá ba sinh
Bên mồ nắm trấu riêng sùi sụt
Nhen bóng hoàng hôn đóm lửa xanh
Phú Ân, 1947.
Chút lửa xanh nhen từ nắm trấu bên mồ ấy chắc đã sưởi ấm hương hồn người bạn quá cố.
Khi làm mộ cha tôi, mẹ tôi đã lấy hai câu”luận” (5&6) trong bài “Khóc Bạn” để làm câu đối khắc hai bên bia mộ:
“Chích nhánh ủ ê chiều liễu yếu (5)
Khóc măng quằng quại bóng tre cao” (6)
Câu (5) nói về người góa phụ và câu (6) nói về song thân người quá cố.
Khi cha tôi mất, tôi mới 50 ngày tuổi, nên biết về cha mình rất ít. Nay đọc bài của anh Trường Nghị, tôi thấy thương và kính cha mình hơn. Một đời người qua đi rất nhanh, chỉ còn lưu giữ trong tim bạn bè, người thân tình thương yêu, kính trọng mới là điều đáng quý.
Tôi biết ơn cụ Quách Tấn về tấm lòng của cụ dành cho cha tôi. Tôi cũng cảm ơn anh Quách Giao, người cung cấp di cảo của cụ Quách và Trường Nghị, tác giả bài báo nầy (đồng thòi in trong tạp chí Quán Vănsố tháng 9/2012 và posted trên xunau.org).
Nam Thi Trần Thiếu Bảo
- Thi Thoại Trong Di Cảo Cuả Nhà Thơ Quách Tấn Chưa Công Bố Trường Nghị Hồi ức
• Thi Thoại Trong Di Cảo Cuả Nhà Thơ Quách Tấn Chưa Công Bố (Trường Nghị)
- Thăm thi sĩ Quách Tấn (Nha Trang, 1970) (Đỗ Nghê)
(Nguyễn Mộng Giác)
- Quách Tấn với những cách tân về ngôn ngữ và nhịp điệu thơ (Nguyễn Công Thanh Dung)
- Quách Tấn (vanxuanthidan)
- Vài nhận xét về hai bài thơ của Quách Tấn (NP phan)
- Quách Tấn (Lộc Xuyên)
- Tưởng Niệm Nhà Thơ Quách Tấn (1910-1992) (Nam Phong tổng hợp)
- Vài câu chuyện về nhà thơ Quách Tấn (Nguyên Lạc)
- Tiểu sử (wiki)
• Di Sản Thơ Văn Hàn Mặc Tử và Vụ Án Trần Thanh Mại (Quách Tấn)
• Con Đường Thơ Của Hàn Mặc Tử (Quách Tấn)
Tác phẩm trên mạng:
- Trong vườn hoa thơ Quách Tấn
• Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc (Vương Trùng Dương)
• Trịnh Y Thư: Những mối tình trong “Đường về thủy phủ” (Phan Tấn Hải)
• Đọc sách “Sài Gòn không phải ngày hôm qua” của Phúc Tiến (Nguyễn Văn Tuấn)
• Đọc “Cùng nhau đất trời” của Khánh Trường (Song Thao)
• Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Đỗ Anh Hoa)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |