|
Lê Văn Thiện(0.0.1947 - 30.7.2018) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Vài hàng về tác giả: Thiệu Chấn Quốc sinh năm 1948 tại Bắc Kinh. Sau khi tốt nghiệp Trường Nghệ Thuật Cam Túc năm 1965, ông làm biên kịch cho Đoàn Văn Hóa Định Tây và Đoàn Kịch Tần Cư ở Cam Túc sau đó theo học môn văn học từ năm 1985 đến năm 1987 tại Khoa Văn Hoá Trung Quốc, Đại học Vũ Hán, và được cấp bằng Cử nhân Văn Chương. Năm 1980, ông xuất bản truyện ngắn đầu tiên. Câu chuyện dưới đây đã đoạt giải thưởng trong cuộc thi truyện ngắn toàn quốc lần thứ Bẩy tại nước này.
Năng lượng của cô ấy thật không bao giờ cạn. Vừa từ ngoài đồng về, Thủy Hương đã cầm lấy chiếc chĩa ba đẩy đống hạt cải phơi trong sân thành một đống lớn sát vào tường. Người mẹ chạy tới giật lấy chiếc chĩa ba từ tay cô ra.
- Vào nhà nghỉ đi. Sao con chẳng bao giờ thấy mệt vậy?
Thủy Hương buông chiếc chĩa ba, rồi dọn dẹp đồ đạc trong sân.
Khói từ bếp cuộn lên, những vì sao bắt đầu lấp lánh trên bầu trời. Ăn xong, Thuận Xương mài từng lưỡi liềm rồi trải gói đồ ra chân tường sân. Anh định nằm xuống thì bà già nói vọng tới.
- Này cậu kia. Ta đã dọn chỗ trong lán rơm rồi. Lại đó mà ngủ đi.
- Mẹ - Với giọng điệu trách móc lẫn nũng nịu.
- Gì đó con?
Thủy Hương đã đẩy cửa phòng phía tây sân.
- Vào đây ngủ trong phòng này đi, ngốc.
Anh ta im lặng một lúc, rồi nói – Không … không … tôi không thể. Tôi ngủ ở đâu cũng được.
Bà già cũng không nói nên lời, nhưng khi nhìn thấy vẻ mặt thật thà của Thuận Xương, bà nói: - Phải, đúng vậy. Nhà còn nhiều chỗ trống mà. Đi nào - Bà nắm lấy cánh tay Thuận Xương, da đang bị bong tróc vì cháy nắng, và dẫn anh sang căn phòng phụ.
Căn phòng gần như trống trơn, chỉ có một tấm thảm và một tấm chăn trải trên giường, một cái bàn trên đó là chiếc đồng hồ báo thức kêu tích tắc.- Đây là phòng của đứa con trai. Nó đi tới nhà họ hàng chơi, khi nào lúa gặt xong mới về.
Thuận Xương nhìn bà lão với vẻ biết ơn, bồn chồn ngồi trên mép giường, đưa bàn tay thô ráp lướt trên mép gỗ bóng loáng. - Bà ơi...
- Này, đừng gọi ta là bà. Trông bà có vẻ già nhưng ta chỉ mới ngoài năm mươi thôi. Chỉ vì đã trải qua những ngày tháng khó khăn. Cuộc sống chỉ bắt đầu khá hơn khi bà có Thủy Hương, mà lúc đó ta đã ngoài ba mươi.
- Nhưng tại sao con trai bà không làm gì?
- ... Ờ, nó không đủ sức. Đó là lý do tại sao. Giống hệt cha nó vậy - Bà đáp với giọng chua chát. Tay run rẩy, bà quẹt diêm và lặng lẽ thắp đèn dầu. - Tất cả con trai của ta đều bị tật. Hai đứa đã không sống được, và chỉ... thằng kia còn sống. Giá mà hắn chết thì tốt biết mấy. Nếu không có Thủy Hương thì ta đã chết từ lâu cùng với lão chồng quỷ sứ rồi.
Thuận Xương là một chàng trai mềm lòng, nước mắt đã chẩy ra, tuy vậy đèn lại mờ bà không thể nhìn thấy.
- Con mệt vì buổi gặt đấy. Con nên ngủ một chút. Giờ ta đi đây.
Bà định ra khỏi cửa thì quay lại - Ồ, chăn ở đằng kia kìa. Con có thể đắp chăn lên người. - Không hiểu sao bà ta vẫn không rời khỏi phòng. Cuối cùng, bà tới gần chiếc bàn rồi đưa tay ra cầm lấy chiếc đồng hồ báo thức. Bà mỉm cười ngượng nghịu, ánh đèn mờ chiếu sáng khuôn mặt già nua, xám xịt và rời khỏi phòng.
Thuận Xương hiểu là bà ấy lấy chiếc đồng hồ vì không tin tưởng vào mình nhưng không cảm thấy oán giận. Anh thấy hơi xấu hổ vì đã đưa bà lão vào tình thế khó xử. Anh đã học được rất nhiều điều qua những lần đi gặt thuê, và biết mình được đối xử rất tốt khi được mời ở chung nhà với chủ nhà.Trong lúc anh đang nghĩ ngợi về những gì đã xảy ra, cánh cửa kẽo kẹt mở ra và Thủy Hương bước vào, một tay cầm bình giữ nhiệt và hai chiếc ly sứ đẹp.
- Nếu khát thì cứ uống nhé. Tôi để chúng ở đây.
Rồi cô lấy chiếc đồng hồ báo thức từ trong túi ra và đặt lại vào vị trí cũ trên bàn. Thấy vậy, Thuận Xương không khỏi đỏ mặt khi nghĩ đến việc ăn cắp. Thủy Hương nhận ra và nhanh chóng giải thích:
- Mẹ tôi không biết cách lên dây cót. Bà ấy phải bắt tôi làm.
Thuận Xương biết cô nói dối, nhưng dù vậy nét mặt anh vẫn rạng rỡ tỏ lòng biết ơn. Thợ gặt được ăn cơm ở nhà hàng trăm người, họ biết ai đối xử tốt với mình. Nhưng dù được chăm sóc chu đáo đến đâu, đây cũng là lần đầu tiên có người ngưỡng mộ, tin tưởng và cũng là lần đầu tiên anh biết được cảm giác được đối xử như vậy. Điều này đánh thức trong anh lòng tự trọng tiềm ẩn; anh tận hưởng cảm giác đó một cách trân trọng và cũng có chút cay đắng. Anh có cảm giác như có một vết dao đâm vào tim, nhưng đồng thời cũng có bàn tay ai đó đang vuốt ve vết thương và xoa dịu nó. Anh ngước mắt nhìn thẳng vào Thủy Hương, dường như chỉ khi đó anh mới khám phá ra khuôn mặt cô đẹp đến nhường nào, dịu dàng đến nhường nào, nhân hậu đến nhường nào, đặc biệt là đôi mắt, như hai hồ nước, sâu hun hút không thấy đáy ...
Thủy Hương e thẹn cụp mí mắt xuống, nhìn xuống ngọn đèn dầu, bấc đèn đang rung rinh những tia lửa nhảy múa.
- Uống nước nhé? - Cô hỏi, tay cầm bình giữ nhiệt.
- Ừ … không … cảm ơn cô chủ.
- Đã bảo anh đừng gọi tôi là cô chủ mà, không thể gọi khác được sao?
- Nhưng...
- Mẹ tôi đặt tên tôi là Thủy Hương, nước thơm. Bà nói nước ngọt từ khi có tôi.
Cô ta rót một tách nước, im lặng một lúc rồi đột nhiên buột miệng.
- Này, anh đã hai mươi sáu tuổi rồi mà sao vẫn chưa kiếm được vợ?
- Sao cô lại hỏi thế? - Tim bấc cháy xèo xèo hơn nữa. Thủy Hương lấy một chiếc kẹp tóc trên tóc ra chọc vào ngọn lửa.
- Tại sao không hỏi được.
- Hừm... Cuộc sống ở Trang Lãng không dễ dàng gì, cô biết mà. Cha mẹ tôi vẫn chưa kiếm được đủ tiền.
Im lặng lại bao trùm căn phòng.
- Hay là … tôi cho anh vay cho đủ số tiền lấy vợ nhé.
- Nhưng mà làm sao trả cô được? À, cô đang trêu tôi phải không?
- Không … Mỗi năm anh sang đây... gặt lúa trả nợ. Được không? - Đèn bỗng sáng hơn, soi rõ khuôn mặt hồng hào của Thủy Hương và in bóng dáng thon thả của cô lên tường - Giờ thì đi ngủ thôi. Ngày mai chúng ta sẽ ra đồng sớm hơn một chút.
Thủy Hương vội vã trở về phòng mình ở phía đông.
Mình kiếm được bao nhiêu nếu cứ đi gặt lúa thuê năm này qua năm khác? Vậy thì... Không, không thể bắt nó đợi thêm nữa, muộn nhất là đến Tết Nguyên Đán nó phải lấy vợ. Nếu không kiếm đủ tiền, mình sẽ tháo dỡ nhà, bán cửa ra vào, cửa sổ và xà nhà, để lại bốn bức tường, thế là có được khoảng một trăm tệ. Vài ngày nữa về và gặt lúa rồi gieo một ít kiều mạch giống như vợ mình đã làm. Mình sẽ sống qua mùa đông bằng kiều mạch và bán hết lúa để kiếm thêm một trăm tệ nữa. Nếu kiếm được bảy tám trăm, xem cô gái nhà họ Tống có chịu lấy nó không. Nếu không thì phải lấy con gái anh chàng gù lưng. Anh ta nói anh ấy sẵn sàng lấy ít hơn.
- Này, tỉnh lại đi, anh sui! Đừng cố quá làm hỏng đôi chân già nua của anh đấy! - Lão gù lưng hét lên đùa cợt từ ruộng lúa bên cạnh, lão đang duỗi đôi chân cứng vì mỏi.
Ngô Hòa Đông cắt thêm vài nhát nữa rồi ngồi xuống nghỉ ngơi. Lão tháo chiếc mũ rơm ra, chớp chớp mắt bị mồ hôi đổ vào. Không biết con bé nhà lão có gù lưng giống cha nó không ...
- Này ông chủ, ông đeo cái đồng hồ này mà gặt lúa, có bị sạn đất có chui vào không? - Người đàn ông trung niên ngồi cạnh Trương Căn Phát hỏi trong khi thay lưỡi liềm khác.
- Ha ha. Cái đồng hồ này á? Nó chống nước và chống sốc đấy. Ông nghĩ nó không thể ngăn được chút sạn đất sao? Thép ròng đấy. Đất cát không thể lọt vào được.
Ngô Hòa Đông quay lại thấy hắn cười đắc ý mà khẽ thở dài. Giá mà có đồng hồ này thì không phải phá nhà. Trời đang giữa trưa, nắng gắt như thiêu như đốt. Nhưng lưỡi liềm sẽ ít mòn hơn khi cọng lúa khô, và nó cắt nhanh hơn. Nắng gắt thì đã sao chứ?
Ông chủ lấy khăn lau mồ hôi ra lau mặt. Hắn nhét chiếc khăn vào dưới chiếc dây đồng hồ, chiếc dây đeo đồng hồ đứt phựt ra dưới sức ép mà hắn không biết.
- Bà kia, mang trà cho chúng tôi.
Người đàn ông trung niên quay đầu, tiếp tục cắt lúa hỏi Trương Căn Phát. - Ông chủ này, hai ngày nay ông không cho người mang trà ra. Sao giờ ông mới nghĩ ra vậy? Ha ha, nói đùa thôi. Đừng hiểu lầm.
- Không, cứ tiếp tục gặt đi. Bây giờ lúa vàng úa rồi.
Vừa nói hắn vừa cởi áo, cuộn chặt lại rồi thả xuống đất cạnh chân trước khi tiếp tục tiến lên. Phần lớn lúa đã bị cắt trụi, trông như bãi biển lúc thủy triều xuống. Ánh nắng chói chan vẫn tiếp tục chiếu xuống. Tuy nhiên, Ngô Hòa Đông không hiểu sao lại cảm thấy lạnh sống lưng.
Mồ hôi nhễ nhại, ông ta vung liềm chém loạn xạ, chẳng quan tâm đến việc nó có cắt vào chân, hay thậm chí đâm vào người, hay vào tim. Ông chạy vội đến mép cánh đồng, vừa đi vừa buộc những thân lúa thành từng bó. Quay lưng về phía mặt trời, ông vẫn thấy lạnh buốt. Đôi mắt già nua lấm lem bùn đất chớp chớp, không biết là mồ hôi hay nước mắt.
Khi ông cố sức kéo căng, sợi dây rơm đứt phựt. Ông lại túm lấy bó lúa buộc lại. Tay ông run rẩy không thể kiểm soát. Có chuyện gì vậy? Mình làm sao vậy. Sao mình lại tệ đến thế, như thể mình sắp tự tử vậy? Nếu thực sự muốn chết, đồ quỷ già, thì hãy đi đâu đó nằm xuống mà chết đi! Cái gì đang cản trở ông? Chỉ cần đừng làm nhục mình ở đây là được. Nhưng ông vẫn không thể ngăn đôi mắt đỏ ngầu nhìn xuống chỗ chiếc áo sơ mi cuộn tròn của ông chủ đang nằm trên mặt đất.
Cánh đồng lúa của Thủy Hương giờ đã được gắt hết. Ruộng lúa cuối cùng trong thung lũng nằm im lìm, ngủ yên như con tằm mệt mỏi sau khi nhả hết tơ. Cánh đồng đầy những bó lúa chất thành đống gọn gàng, cùng với một ít lúa rải rác chưa kịp bó lại. Mỗi bên đặt hai chiếc liềm, sát vào nhau, lưỡi liềm nóng đến mức bỏng tay.
- Này anh, uống đi.
Không rõ từ khi nào cô gọi Thuận Xương thân mật như vậy. Cô bước đến mép ruộng, uống một ngụm trà lạnh, rồi mang bình trà đến cho anh. Những tia nắng cuối cùng chiếu xuống qua đám cây xanh rậm rạp trên đỉnh thung lũng, Thủy Hương tắm trong ánh vàng kim, làm nổi bật đường cong tròn trịa của chiếc eo và đôi mông duyên dáng. Nước trà chảy ra từ bình, như tiếng chim gù gù trong thung lũng. - Nào, uống đi.
Thuận Xương bước ra khỏi đám bó lúa mì, cầm lấy bát và tu một hơi hết sạch.
- Muốn uống thêm không? Tự rót đi. Tôi không hầu hạ anh đâu.
- Ha ha, chị ơi - Thuận Xương cười ngây ngô.
Thủy Hương đẩy lọn tóc ra sau tai.
- Anh đúng là nói năng ngớ ngẩn. Tôi nhỏ hơn anh vài tuổi. Sao anh không thể gọi tôi là "em" hay gì đó cho tử tế hơn?
- Nhưng mà...
- Nhưng mà sao? Anh không muốn à?
Cô ta ngẩng cao cái cổ thon dài, nghiêng đầu nhìn Thuận Xương.
Thuận Xương đột nhiên cảm thấy một luồng nhiệt chạy dọc sống lưng, ngực thở hổn hển, không nhịn được thốt lên - Chị... em.
Cô ta mỉm cười ngọt ngào.
- Cuối cùng thì anh cũng nói đúng rồi.
Cánh đồng gặt xong thơm phức mùi đất và mùi thơm nồng nàn của rơm. Thủy Hương nằm dài trên đống rơm chưa được bó và duỗi người ra. Chiếc quần đen của cô căng cứng bởi đường cong quyến rũ của đôi chân đang run rẩy nhẹ. Bộ ngực đầy đặn, săn chắc của cô phập phồng trong chiếc áo bó sát đẫm mồ hôi. Nhìn cô, Thuận Xương cảm thấy tim mình nhói lên, đối với anh, đây là một thế giới mới mẻ đầy bí ẩn. Thủy Hương tựa vào khuỷu tay, quay mặt về phía anh.
- Tôi cũng là người Trang Lãng, anh biết không? Anh không tin tôi à?
- Ha ha, tất nhiên là không. Giọng nói của cô nghe không giống người Trang Lãng chúng tôi chút nào.
- Lâm Du này nổi tiếng với những đàn ông tàn tật, nhưng giọng nói ở đây hay hơn nhiều so với Trang Lãng của anh, phải không?
- Đúng rồi, ở chỗ tôi người ta nói giọng đặc quánh đến nỗi làm thủng màng nhĩ.
Thủy Hương cười phá lên, tự do thoải mái như tiếng suối róc rách dưới đáy thung lũng.
- Lâm Du, anh thấy ở đây tốt chứ?
- Ồ, ở đây đẹp quá, tuyệt vời thật.
- Anh ... anh có muốn đến sống ở đây không?
- ...
Thủy Hương quay đi. Cô nhìn ra cánh đồng vừa được cắt xong như thể đang hối hận vì lúa đã gặt quá nhanh.
- Đừng đi vội, anh. Hay là ở lại giúp em đập lúa nhé.
Thuận Xương ngơ ngác một lúc, như thể anh vừa đánh mất thứ gì đó nhưng không nhớ rõ là gì. Anh bước về phía cô, không thể kiềm chế được. Làm sao anh có thể không yêu cô? Trong suốt hai mươi sáu năm cuộc đời, chưa có cô gái nào thân thiện với anh đến thế, chưa có ai từng nhìn một kẻ nghèo kiết xác như anh đến hai lần, anh cũng chưa nắm tay một cô gái nào, vậy mà giờ đây, cô gái trẻ xinh đẹp, tốt bụng, dịu dàng này lại đang thân mật như vậy. Làm sao không thể rung động trước cô gái đáng yêu như cô. Làm sao không thể gọi cô là em? Nhưng dù sao anh vẫn thấy nên coi cô như người là em gái thì tôt hơn.
- Không, anh phải đi. Anh đã nói với bố là sẽ gặp lại nhau ở điểm gặt kế rồi.
Như có rất nhiều điều muốn nói nhưng không thể nói ra, Thủy Hương nhìn Thuận Xương bằng đôi mắt đen láy, trong veo. Bỗng nhiên, cô thấy một luồng thương cảm trào dâng trong lòng.
- Anh ...
- Em ...
Cô từ từ đưa bàn tay đang run rẩy ra, và Thuận Xương nắm lấy, trái tim đập thình thịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Cô nhẹ nhàng kéo anh về phía đống lúa.
Hít một hơi thật sâu, anh từ từ hạ mình xuống, mùi thơm nồng nàn của rơm và đất hòa quyện cùng mùi mồ hôi cơ thể. Phía dưới tiếng rơm lách tách, anh có thể nghe thấy tiếng thì thầm khe khẽ: - Tối nay, anh... đến phòng ở cánh đông nhé ...
Tối hôm đó, Ngô Hoà Đông vẫn nằm dưới chân đống lúa như trước, ngước nhìn lên bầu trời đầy sao. Sao nhiều quá, lại dày đặc như vậy, làm sao có thể tìm được ngôi sao sáng ấy? Còn vợ ông bây giờ ra sao rồi? Bà sẽ không cần phải làm việc ngày đêm nữa. Cứ nghỉ ngơi đi. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ về, và đến mùa xuân tới tôi sẽ lo liệu mọi thứ cho nó. Bà đừng lo, sẽ thấy.
Ông lăn qua, dùng bàn tay to lớn vuốt phẳng chiếc túi lương thực. Nó gồ ghề, dù sao thì cũng chỉ là ít bánh cũ, khô khốc, làm sao có thể gối đầu thoải mái được? Ông xoa đầu rồi nằm xuống. Một lúc sau, ông thấy bụng đói, lại lăn qua và mở túi ra. Nó rất to và dường như không đáy, có thể đựng được vài trăm cân. Ban đầu nó được làm bằng vải trắng trơn nhưng giờ đen thui và bẩn thỉu như một miếng giẻ lau máy cũ.
Bỗng nhiên, ông nghe thấy tiếng ai đó ho, chiếc túi trong tay bất giác run lên. Ông ngẩng đầu lên thấy ông lão dưới gốc cây đang đứng trước mặt. Ông ta cầm một cái chĩa ba úp ngược làm gậy chống.
- Ông chưa ngủ à? - Ngô Hòa Đông hỏi.
- Ồ không, chưa đâu. Tôi đang trông coi sân trại. Nếu hút thuốc thì cẩn thận kẻo gây cháy đấy. - Vừa nói, mắt ông vừa nhìn lại túi lương thực của Ngô Hòa Đông. Ông nghĩ mình thấy có gì đó lấp lánh trong đó. Nhưng giờ nó đã biến mất, đôi mắt già nua của ông thực sự không còn tinh tường gì nữa, chúng lẫn lộn trời đất và chỉ thấy sao trên mặt đất.
Tay run rẩy, Ngô Hòa Đông vội vàng giải thích. - Tôi thấy hơi đói, ông biết không. Tôi nghĩ... tôi nghĩ mình cần ăn một chút.
- À, ăn đi. Muốn khỏe mạnh thì đừng để bụng đói. Tôi đi lấy nước cho anh nhé.
Ông lão lại mỉm cười với sự ấm áp và lòng trắc ẩn chân thành, khuôn mặt nhăn nheo và bộ râu lởm chởm dựng đứng.
Cánh cửa căn phòng phía đông khép hờ và khung cửa sổ tĩnh lặng ngập tràn ánh sao. Thủy Hương không ngủ, nàng ngồi đờ đẫn bên mép giường, nghĩ đến việc thắp đèn lên nhưng lại thôi. Căn phòng tối om, chỉ có ánh sáng ngôi mặt trăng trên cao chiếu qua khung cửa hình vuông xuống rèm cửa. Có vẻ anh ta không đến. Nàng lại nhấc chăn lên và nhìn sang căn phòng chái tây.
Thuận Xương nằm trên giường, không sao ngủ được. Trước mắt anh là hình ảnh một người đàn ông: một người đàn ông què một chân, cái đầu to quá khổ so với thân hình, và không thể đếm đến con số mười. Dù sao anh ta vẫn là một người đàn ông, một người đàn ông với thân thể tàn tật và trái tim què quặt. Làm sao Thuận Xương có thể nhẫn tâm làm xấu hổ anh ta được? - Anh ... – Có tiếng thì hầm khe khẽ, gần như không nghe thấy. - Anh nắm chặt tay cô, ngửi thấy mùi hương nồng nàn say đắm của rơm, của đất, mồ hôi, của cơ thể người đàn bà... Ánh trăng chiếu vào, soi sáng hai bàn tay run rẩy. Ồ, chuyện gì thế này? Chuyện gì đang xảy ra vậy? Cánh cửa đóng chặt. Không còn nhận ra mình đang làm gì, Thuận Xương bước qua và đẩy thân hình lực lưỡng của mình vào cửa. Hình ảnh khuôn mặt bà già hiện lên trước mắt anh như trách móc.
Hôm đó khi từ cánh đồng trở về, bà già đã nấu bốn món ăn kèm theo chai rượu. - Mai cậu phải đi sớm, ăn cho no đi... Thuận Xương như không thể cầm đũa hay đưa thức ăn lên miệng. Anh cảm thấy tội lỗi vì đã nắm tay Thủy Hương, và cũng xấu hổ đến nỗi không mở miệng ra nói tiếng cám ơn lòng tốt của bà nữa. - Thôi nào, ăn đi. - Nhưng còn cô chủ đâu ạ? - Nó nói đến hợp tác xã mua dầu hỏa. Nó quay lại thôi, còn cậu thì hãy ăn đi. – Anh ta thầm nghĩ: - Ừm, dù sao thì cũng chỉ là nắm tay thôi, mà mình khó có thể từ chối được.
Anh bắt đầu ngấu nghiến. “Bữa Tiệc Đêm Giao Thừa", mà dường như với anh, ngay cả vào dịp Tết, người dân ở Trang Lãng cũng không có những món ăn ngon như thế này. Bà già cầm một xấp tiền, đếm lại rồi cuối rồi đặt lên bàn. - Đây. Chúng tôi trả công cậu hai mươi mẫu, ba tệ một mẫu. - Cái gì? Sao bà trả nhiều ... - Đừng bướng bỉnh nữa. Cậu biết là không thể cãi lại Thủy Hương mà. Thôi nào ăn đi. - Thuận Xương quay lại giường, ngẫm nghĩ lại tất cả những chuyện đã xảy ra. - Em phải hiểu tại sao anh không thể, em ạ. Nhưng anh sẽ... Anh sẽ không bao giờ quên em, không bao giờ. Em sẽ luôn ở trong tim anh.
Rèm cửa nhẹ nhàng trượt khỏi tay. Cô quay đi, nhìn chằm chằm vào chiếc bàn bóng loáng, tách trà nguội ngắt, và tấm chăn được cuộn cẩn thận trên giường, tất cả đều được chuẩn bị sẵn cho anh... Cô nhớ lại những gì đã nói với anh - Em cũng là người Trang Lãng, anh biết đấy - Và những kỷ ức thủa nhỏ ùa về...
Thực sự cô đến từ Trang Lãng. Mẹ cô mất ngay sau khi sinh ra cô. Chuyện đó xảy ra vào năm 1958. Sau đó là nạn đói lớn xảy ra, người cha không thể nuôi cô được và đã bị đổi lấy một ít lúa. Thủy Hương không bao giờ biết được mẹ ruột của mình là ai. Nếu có hỏi mẹ mới, bà sẽ giải thích trong nước mắt - Nhưng ta là mẹ của con, con ạ, mẹ ruột của con như bất kỳ người mẹ nào trên cõi đời này; Con không nên nghe lời đồn đại của mọi người. Con hỏi những câu hỏi như vậy để làm gì? Mẹ đã cho con bú, quấn tã cho con, giữ cho con sống qua những năm 1959 và 1960 lúc đó cả nước chìm đắm trong nạn đói khủng khiếp.
Dù là người mẹ ruột cũng không thể làm được nhiều hơn thế. Một góa phụ có con phải nuôi nấng thì lại gặp nhiều thử thách nhiều hơn. Người ta nói là bà ấy đã phải tự mình vật lộn qua bao nhiêu ngày tháng khổ sở. Thủy Hương nhớ lại khi cô mới bắt đầu biết nói đã hỏi bà - Mẹ bao nhiêu tuổi rồi? - Mẹ ba mươi ba. – Còn con bao nhiêu tuổi? - Con ba tuổi ròi, con ạ - Khi nào thì con mới có thể bắt đầu làm việc giúp mẹ được? - Sao con lại hỏi như vậy? - Thủy Hương không trả lời, chỉ nhìn người anh trai tàn tật, đôi mắt âm u ngấn lệ. Mẹ cô hiểu ngay - Ôi con gái của mẹ... - Rồi bà ôm chặt cô, nước mắt lăn dài trên má.
Ban đầu, bà định mua đứa trẻ làm "cô dâu nhỏ" cho đứa con trai tàn tật của mình. Nhưng sau đó, khi thấy đứa trẻ lớn lên, bà không nỡ tiếp tục kế hoạch, mà chấp nhận nó, bằng cả trái tim lẫn tâm hồn, coi cô như con ruột của mình. Nhưng rồi, khi chứng kiến Thủy Hương trưởng thành từng ngày, bà nhận ra mình sẽ sớm phải rời xa nó vì nó sẽ kết hôn với một người nào đó, và tất cả những gì bà đã xây dựng sẽ tan thành mây khói, mọi triển vọng về một cuộc sống tử tế, hạnh phúc sẽ tan như bọt bể. Bà không còn lựa chọn nào khác. Phải lấy hết can đảm nói với Thủy Hương - Con ơi, con sẽ phải lấy anh con - Cái gì! Lấy anh ấy! Mẹ ơi, con là con gái của mẹ, con của mẹ, mẹ ơi... - Cô bé bắt đầu khóc, bà mẹ cũng vậy, nhưng Thủy Hương không nhận ra nước mắt của mình. Cô chỉ thấy mắt mẹ ướt đẫm. - Mẹ đừng khóc, mẹ đừng khóc. Con sẽ làm bất cứ điều gì mẹ muốn, con sẽ ...
... Nàng ngơ ngác nhìn bóng lưới mắt cáo cửa sổ in trên tấm rèm, như thể đang đếm ngược từng ngày tháng hôn nhân, từ năm mười bốn tuổi cho đến tận hôm nay. Nàng chưa từng yêu, và bây giờ không biết tại sao mình lại yêu chàng. Nàng nhớ lại lần ấy mình đã tự nguyền rủa bản thân và nghĩ mình thật xấu xa, và giờ đây nàng vẫn cảm thấy như vậy. Ta là một người đàn bà hư hỏng, một người đàn bà độc ác! Anh đã đúng khi không đến, anh ạ, đúng là như vậy, không nên đến
Nàng ngã vật xuống giường. Một cơn gió mạnh thổi tung những họa tiết lưới mắt cáo in trên rèm.
Sáng hôm sau, khi trời vừa hửng sáng Thuận Xương trèo xuống giường. Không một tiếng động, chàng dọn dẹp phòng, lau sạch bàn và đặt chiếc đồng hồ báo thức, bình giữ nhiệt, tách trà và chiếc đèn ngủ trở lại đúng vị trí cũ.
Khi rời khỏi phòng, anh nghĩ đến việc đợi mọi người dậy rồi chào tạm biệt, nhưng nếu gặp lại Thủy Hương thì biết nói gì với cô ấy đây? Anh liếc nhìn căn phòng ở phía đông lần cuối rồi nhặt túi đồ nghề và bước ra khỏi cổng.
Anh đi ngang qua những cánh đồng mà hai người đã cùng nhau gặt, đây là con đường họ đã cùng nhau đi qua. Khi bước đi, dường như nghe tiếng cô gọi. Anh không dừng chân mà ngoái nhìn lại. Ngôi nhà của họ đã khuất khỏi tầm mắt. Chỉ còn lại một thung lũng núi hoang vắng và tiếng chim hót lúc bình minh.
- Anh ơi... - Giọng nói ấy như vang lên trong tâm trí anh.
Anh quay lại và kinh ngạc. Trước mặt anh trên con đường mòn hẹp, Thủy Hương đứng đó, quay lưng về phía mặt trời nên chỉ là một bóng đen in trên nền trời xanh.
Anh vội vã tiến lên vài bước rồi lại dừng lại. Giờ anh có thể nhìn rõ khuôn mặt, nhợt nhạt như tờ giấy trắng. Cô mặc một chiếc áo khoác ngắn màu đen, cài khuy bên hông, trông giản dị và nghiêm nghị.
- Em đến tiễn anh - Cô nói rồi đứng im lặng, một lát sau cô nhấc chiếc túi vải đeo bên khuỷu tay lên và mở ra cho Thuận Xương xem. Trong túi có vài ổ bánh mì cùng một đôi giày đế cao su mới, cỡ 41.
- Bánh mì để ăn khi đói, giày để đi đường.
Khi cô đưa túi ra, tay cô bắt đầu run rẩy.
- Cầm lấy đi anh.
Hai dòng nước mắt lặng lẽ rơi trên má Thuận Xương. Chiếc mũ rơm, túi hành trang gồm chiếc liềm, lương thực của anh từ từ tuột khỏi vai, và không thể kiềm chế được nữa, anh lao tới ôm chặt cô, hôn liên tục lên đôi môi nhợt nhạt, trắng bệch của cô. Dòng nước mắt cô cố kìm nén cuối cùng cũng trào ra từ giữa hai mí mắt đang nhắm nghiền của nàng. Vài phút sau, anh buông cô ra rồi thu dọn hành lý mang lên vai.
- Anh .. còn cái này nữa. – Nói xong cô lấy từ trong túi ra một bọc giấy gói cẩn thận. – Như đã nói với anh … nhớ là mỗi năm tới đây gặt lúa trả nợ nhé.
Ngô Hòa Đông đờ đẫn chờ trời sáng, rồi vác hành lý trên vai cùng đồng nghiệp rời khỏi làng. Họ ra khỏi cổng và sắp ra đến con đường cái thì đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân vội vã phía sau và ai đó hét lên: - Chắc là hắn trộm mất cái đồng hồ của tôi rồi! - Ngô Hòa Đông giật mình bước nhanh hơn.
- Dừng lại.
Bốn người thợ gặt đồng loạt quay lại. Cả râu quai nón lẫn người đàn ông trung niên đều trừng mắt nhìn hắn phẫn nộ, trong khi lão gù lưng bước tới với nụ cười mệt mỏi trên môi. Tuy nhiên, Ngô Hòa Đông vẫn đứng chôn chân tại chỗ, vẻ mặt đờ đẫn. - Có chuyện gì vậy ông chủ? Giờ ông muốn gì nữa? Lão gù lưng cười hỏi.
Trương Căn Phát đẩy lão ra và bước về phía Ngô Hòa Đông.
- Này ông kia! Hôm qua lúc gặt, ông ở bên cạnh tôi, phải không?
Mặt mày Ngô Hòa Đông như tượng gỗ, nhưng ông ta từ từ hạ chiếc túi lương thực xuống khỏi vai. Đột nhiên, một giọng nói già nua vang lên.
- Đứng im.
Ngô Hòa Đông ngước lên nhìn lão già dưới gốc cây, nhưng giờ thì ngực lão đã dựng lên khi tập tễnh bước tới.
- Không phải ông ta lấy nó. Tối qua tôi đã lục kỹ rồi, không thấy đâu. Tốt hơn là anh nên thả ông ta ra - Ông lão quay sang Ngô Hòa Đông - Thôi đi đi, tất cả các người đi đi.
- Cha … cha đang làm gì vậy? - Trương Căn Phát gặng hỏi.
- Con sẽ lấy lại chiếc đồng hồ, đừng lo. Nó vẫn ở đây. Thực ra, chính cha mới là người lấy nó. - Ông lão nghiêm nghị trả lời.
- Vậy thì nó đâu rồi?
- Cha để nó lại trong chòi gác.
Giọng lão già càng lúc càng lớn, Trương Căn Phát đành nuốt cơn giận. Lão già lại quay sang nói với những người thợ gặt: - Thôi, làm hòa với anh ta đi, chỉ là chuyện hiểu lầm.
Ngô Hòa Đông không thể nhấc nổi chân, ba người kia đi trước, còn anh đứng sững tại chỗ, vẻ mặt đờ đẫn. Lão già lại trở về dáng vẻ ban đầu, với nụ cười hiền lành, dịu dàng, khuôn mặt nhăn nhó.
Đừng buồn, anh bạn. Tôi hiểu rõ vấn đề của anh, trước kia tôi đã dành nửa đời mình làm lao động phổ thông, tôi hiểu cảm giác đó. Con trai tôi đã đi xa rồi và buộc tội anh sai, nhưng đừng buồn, đây, đây là một ít tiền tôi đã dành dụm được. Anh cầm lấy cho tôi vui.
Ông ta chìa số tiền ra bằng đôi tay già nua, nhăn nheo, run rẩy.
Ngô Hòa Đông thấy như mình đang dần tỉnh dậy khỏi giấc mơ, nước mắt bắt đầu rơi lã chã, và dường như khi đó đôi mắt già nua, đục ngầu của ông mới có thể nhìn rõ khuôn mặt của ông lão.
Vừa khóc, ông vừa cúi xuống mở túi đồ nghề. Ông lão nhảy tới nắm lấy miệng túi, nhưng Ngô Hòa Đông buông tay ra, lấy một chiếc bánh bao cũ ra khỏi túi, rồi ông ta lấy ra chiếc đồng hồ sáng bóng.
- Tôi là một tên trộm. Tôi, Ngô Hòa Đông, một tên trộm - Và ông ta bật khóc nức nở.
Ông lão cũng rơi nước mắt thương cảm, và vợ của Trương Căn Phát đứng gần đó cũng bắt đầu khóc.
Vào cuối tháng Sáu, những người thợ gặt từng đoàn rời Thiểm Tây trở về tỉnh Cam Túc.
An Quốc là một thị trấn nhỏ nhộn nhịp nằm ngay ranh giới phía đông tỉnh Cam Túc. Biển chỉ đường ở ngã tư có mũi tên chỉ về phía tây: - Trang Lãng 150 km. - Thỉnh thoảng có xe chở than đi qua, mang theo những đám bụi bặm và lạnh lẽo bốc lên cao. Phải mất rất lâu đám bụi mới tan, để lại những hạt đen vương vãi trên đường.
Trời đã chạng vạng. Bên ngoài một nhà hàng nhỏ, năm sáu người đang ngồi trên những chiếc ghế đẩu thấp quanh một chiếc bàn vuông, trên đó có một bát súp, một đĩa bánh bao. Ngô Hòa Đông bước tới tay bưng một bát mì. Ông ta cẩn thận từng bước đi.
- Đây, Thuận Xương, ăn mì đi!
- Ồ, cha ăn đi chứ.
- Ăn nhanh lên!
Thuận Xương cầm bát mì vừa ăn vừa nhìn xuống chiếc chân đau của bố. Thấy bàn chân trần của ông, cậu chợt nhớ đến đôi giày cao su cỡ 41. Ăn xong mì, cậu lấy chúng ra khỏi chiếc bao.
- Sáng mai chúng ta đi về nhà. Cha mang đôi giầy này cho đỡ đau nhé.
- Hả? Sao con lại mua đôi giày đắt tiền như thế này?
- Con không mua đâu, đó là...
Bỗng nhiên, mặt Thuận Xương đỏ bừng, cậu không biết phải giải thích thế nào về đôi giày.
- Ý con là sao khi nói không mua chúng?
Ngô Hòa Đông nhìn thấy vẻ mặt bối rối của đứa con, ông nhìn xuống đôi giày, toàn thân run lên.
- Vậy lấy chúng từ đâu?
- À … chúng là...
Lòng Ngô Hòa Đông chùng xuống, đập mạnh bát đũa xuống bàn.
- Cha ơi, con được tặng đấy. Chúng là quà đấy.
- Quà á? Đồ trộm cắp khốn kiếp. Cha không biết con học được từ đâu nữa. Mà còn học cả cái trò nói dối nữa.- Cố kìm nén những giọt nước mắt trong lòng, ông đứng dậy lấy cây đòn gánh, đập mạnh vào đôi giày mới, khiến chúng văng ra khỏi tay đứa con trai.
Thuận Xương quỳ xuống và chộp lấy cây gậy. - Cha ơi, có người đã tặng cho con.
- Ai mà thèm tặng quà cho một đứa như mày!
- Là... là Thủy Hương, cô ấy tặng cho con...
Thuận Xương không nhịn được bật khóc nức nở. Anh thuật lại câu chuyện mình đi gặt tại một gia đình ở Lâm Du, họ tử tế như thế nào. Đã trả tiền công cao, khi về còn được tặng đôi giầy và … anh lấy ra một chiếc gói bao bằng lớp giấy cẩn thận đưa cho người cha - Họ nói là cho con mượn và mỗi năm phải tới đó để gặt lúa trả nợ dần …
Sáng hôm sau, Ngô Hòa Đông bắt con trai phải đi giày rồi hai cha con cùng nhau lên đường trở về nhà, trên vai vác đồ đạc. Ngô Hòa Đông nói:
- Đi thôi, nếu chúng ta nhanh chân về thì vẫn kịp thu hoạch vụ mùa.
- Con Sông Đổi Dòng - Phần II Trần Hồng Văn Truyện ngắn
- Con Sông Đổi Dòng - Phần I Trần Hồng Văn Truyện ngắn
- Người Nhập Cư Trần Hồng Văn Truyện ngắn
- Tiếng Hát của Người Dân Chài Trần Hồng Văn Truyện ngắn
- Nikola Tesla Trần Hồng Văn Sưu tầm
- Bên Dòng Sông Tocantins Trần Hồng Văn Truyện ngắn
- Đoạn Kết Trần Hồng Văn Truyện ngắn
- Vết Sẹo Trần Hồng Văn Truyện ngắn
- Bông Hồng Đen Trần Hồng Văn Truyện ngắn
- Con Thú Tật Nguyền Trần Hồng Văn Truyện ngắn
• Con Sông Đổi Dòng - Phần II (Trần Hồng Văn)
• Con Sông Đổi Dòng - Phần I (Trần Hồng Văn)
• Hoa anh đào nở rộ (Truyện ngắn)
• Người Nhập Cư (Trần Hồng Văn)
• Ngôi Sao Sài Gòn (Vũ Thất)
• Tiếng Đàn Piano Lúc Nửa Đêm (Nguyễn Đại Hoàng)
• Trận Phước Quả (Nguyễn Ngọc Thạch)
• Tiếng Hát của Người Dân Chài (Trần Hồng Văn)
• Biển Vẫn Dạt Dào (Vũ Thất)
• Bên Dòng Sông Tocantins (Trần Hồng Văn)
Cánh Vạc Mùa Thu (Trần Hồng Văn)
Đêm Giáng Sinh Nhiệm Mầu
Một Đêm Phiền Muộn
Tiếng Vọng từ Đáy Vực
Đại Sư Và Giai Nhân
Tây Ninh – Chút Còn Lại Trong Lòng Người Lính (Nguyễn Mạnh An Dân)
Ngọn Đồi Trầm Lặng (Trần Hồng Văn)
Hoa Với Lá Chỉ Một Màu Trắng Đục
• Im Lặng Của Thiền Sư (Phan Trang Hy)
• Kể Lại Vài Giai Thoại Trong Tập Vào Thiền (Doãn Quốc Sỹ)
• Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp (Hồ Hữu Tường)
• Mẹ Quán Thế Âm (Phạm Huê)
• Những Hạt Đậu Biết Nhảy (Phạm Huê)
• Maria Quán Thế Âm (Phạm Huê)
• Sợi Tơ Nhện (Nguyễn Văn Thực)
(Thẩm Thúy Hằng-Kiều Chinh-ThanhNga-BạchTuyết)
- Chiếc Bóng Bên Đường - Nàng (1970)
- Người Cô Đơn (1972) - Xa Lộ Không Đèn
- Bão Tình (1972) - Sóng Tình (1972)
- Chúng Tôi Muốn Sống (1956)
- Trường Tôi (1973) - Nắng Chiều (1973)
- Tứ Quái Sài Gòn - Những Giọt Sương Khuya
- Như Hạt Mưa Sa 1 - Như Hạt Mưa Sa 2
- Như Hạt Mưa Sa 3 - Như Hạt Mưa Sa 4
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |