|
Hồ Trường An(11.11.1938-27.1.2020) | Phạm Duy(5.10.1921-27.1.2013) |
Hải đứng lặng nhìn ra giữa dòng sông. Nước lờ lững chảy, vài chiếc đò dọc thiếu khách chạy tà tà và trên bến sông thì vắng bóng người. Gió chướng hiu hiu không hãm được cơn nắng át của tháng ba. Hải nhớ hồi tháng ba năm ấy. Trên chiếc xuồng tam bản mui trần, mũi cột vô hàng đáy giữa dòng sông trong đêm trời đầy sao và con nước ròng chảy xiết. Cũng tại khúc sông nầy, anh với Lệ ôm nhau khóc, nước mắt tuông theo con nước róc rách dưới dạ xuồng. Lệ nghẹn ngào hứa chờ ngày anh trở về bến đáy. "Anh sẽ dìa với em." Ðó là lời hẹn với Lệ trước ngày anh vượt biển.
Thoát một cái đã mười bốn năm dư và anh đã trở về. Những hàng đáy (1) giữa dòng sông vẫn còn trơ trơ, đầu cột đáy có một con nhàn (2) đứng ủ rũ như đợi chờ một tăm cá, nhưng chủ nhân của hàng đáy bây giờ là ai? Anh hỏi thăm không ai biết bến đáy nào của Lệ. Thiên nhiên đã thu hẹp, rừng cây cối lưa thưa, đứng trên bờ chẳng nhìn ra đâu là bến, chỉ thấy một dãy nhà sàn san sát dọc bờ sông.
Hải phải hỏi thăm nhiều lần mới tìm được nhà anh Tài, anh của Lệ, bây giờ đã dời ra vàm sông Ông Ðốc. Anh Tài đã đổi qua nghề câu mực, nhưng vẫn còn giữ nghề đóng đáy trên sông.
Trước kia nhằm mùa nước sổ mỗi khi xuồng đáy về, tôm cá đựng bằng cần xé, người ngồi lựa cá, người nấu nước luột tôm. Ban đêm ánh đèn măng xông soi sáng một vùng, ban ngày tôm phơi ngập sân đỏ ối. Anh Tài nói:
- Bây giờ khổ lắm mày ơi, cá tôm mò đỏ con mắt mới được vài con.
Thiệt vậy, đêm hôm đổ đục về, chị Liên, vợ anh Tài bưng rổ cá tôm lộn xộn lên xốc xốc, lựa ra đếm được hơn chục con cá bống và cân được vài kí lô tôm. Thường ngày vợ chồng sai con bưng cá bưng tôm ra chợ bán, nhưng hôm nay có Hải, anh dành lại ăn.
Hải với anh Tài ngồi nhậu bia ăn tôm luộc. Anh Tài vắn tắt câu chuyện. Sau khi Hải đi, Thành Ðất hỏi cưới Lệ rồi hai vợ chồng dắt nhau xuống Cái Ðôi làm nghề đáy hàng khơi. Hải lặng thinh và trong lòng mênh mang niềm nhớ ... Hồi sau anh Tài hỏi Hải:
- Mầy có muốn tao nhắn cô ấy về chơi hông?
Hải hớp một hớp bia, bóc con tôm lột vỏ bỏ vô miệng, nhìn ra giữa dòng sông.
- Về còn gặp lại anh cho tá túc là may lắm rồi, làm phiền cô ấy nữa không nên.
- Nhưng mà ... mầy ... mầy còn ở đây được bao lâu?
- Khi nào sơn, sửa xong mả của ba má tui thì tui đi.
- Mày còn về đây nữa hông?
- Tui cũng hổng biết nữa.
- Nhưng mà ...
Hình như anh Tài muốn nói thêm điều gì nhưng ngại không nói, anh ngập ngừng rồi bưng ly lên cụng.
- Uống đi mầy.
- Ðêm nay anh cho tui theo đóng đáy với.
- Ðêm nay con Dung đóng đáy, mầy muốn thì đi theo nó.
- Ừa cũng được.
Dung là đứa con gái đầu lòng của Tài, con nhỏ hồi anh đi nó đâu hơn mười tuổi gì đó, bây giờ đã thanh thiếu nữ. Trong lúc cột xuồng chờ con nước ròng anh hỏi Dung:
- Cháu có bồ chưa?
Dung trả lời tỉnh bơ:
- Cháu đen thui thùi lùi như vầy ai mà thèm chú.
Hải day lại nhìn Dung, trong ánh đèn bão đủ sáng cho anh ngắm nghía thân thể đầy đặn, khỏe mạnh, cặp ngực vun tròn nhô ra như muốn bứt tung hàng nút áo bà ba, nước da bóng màu xô-cô-la nguyên chất, mặt tròn không một vết mụn, trên môi lúc nào cũng tươi cười, cái nhan sắc ấy chỉ có ở những cô gái miền sông nước Amazon. Ngặt ở đây, cái xứ tận cùng đất nước Việt Nam, trong thì đồng, rẫy, ngoài thì biển xanh. Người ta chỉ chuộng những cô gái nước da trắng trẻo, ốm yếu chớ không biết chiêm ngưỡng một thân thể mặn mà, đầy đặn và tràn đầy sức sống.
- Mấy thằng con trai miệt nầy đui hết rồi mới hổng thấy cháu đẹp.
Nghe Hải khen cô nhỏ cúi đầu mỉm cười, ngẫm nghĩ một lát Dung ngước lên:
- Ở trong xóm mấy anh con trai kêu con là Dung đen.
- Mai mốt thằng nào kêu con như vậy, thì con cứ nói lại, các anh có mù mắt hông, tui màu xô cô la chớ hổng phải màu đen, đồ ngoại chánh hiệu đó.
- Ai nói dzậy, kì thấy mồ à.
Nước bắt đầu chảy, hai chú cháu cài đáy. Chui đáy xong, buộc xuồng vô cột đáy ở giữa dòng. Trong khi chờ đổ đục, mở cát sét lên nghe nhạc. Cô lấy bánh dừa ra lột vỏ đưa cho Hải, hai người vừa ăn vừa nói chuyện. Dung hỏi:
- Hồi đó chú với cô Tư sắp cưới nhau rồi chú đi phải hông?
Thấp thoáng dưới ánh sao trời, Hải trông gương mặt Dung giông giống Lệ. Hải nhớ cái đêm sắp xếp cho chuyến đi, cũng giữa dòng sông nầy, Lệ đã tặng cho anh của quí nhứt đời người con gái, khóc nức nở, hứa đợi chờ, vậy mà anh ra đi chưa đầy một năm thì cô ấy đã lấy chồng.
- Con biết rồi sao còn hỏi chú.
- Con muốn biết chú còn thương cô Tư con hông?
- Ngồi đây chú lại nhớ hồi chia tay với cô con.
- Cô con nhớ chú lắm, trước đây thấy Việt kiều dìa, cô cứ ngong ngóng, hỏi tại sao không thấy chú dìa, bây giờ chú dìa sao hổng đi thăm cô.
- Cô con đã có gia đình rồi, chộn rộn làm gì.
- Còn thằng Ðợi chú hổng muốn gặp nó sao?
- Thằng Ðợi nào?
- Ủa! Con của chú bộ chú hổng biết hả?
- Con chú!
Hải điếng hồn không nói thêm được lời nào. Nhìn lên bầu trời sao dầy đặc, cúi xuống nước ròng đương chảy xiết, anh vói tay khoát nước rửa mặt, lắc lắc cái đầu cho tỉnh. Nhớ lại những ngày sắp chia tay, ban ngày anh với Lệ ôm ấp với nhau trên chòi, tối xuống xuồng đóng đáy giữa dòng sông, làm chuyện xui xẻo trên xuồng, bất chấp phong tục cấm kỵ ... Anh day qua nói với Dung:
- Chuyện trước kia chú với cô Tư cháu thương nhau chú biết, còn những chuyện xảy ra sau nầy chú hổng biết gì hết cháu à.
- Ba con sợ chú biết nhưng chú hổng muốn nhìn, ổng dặn cả nhà nếu chú hổng hỏi thì không ai được nói.
- Hồi chú đi ra tới ngoải, chú có gởi thơ dìa cho cô Tư con cả mấy chục lá, nhưng thư đi mà hổng thấy thư dìa, chú buồn hết sức vậy đó, chú tưởng ở nhà thất tán đâu đó. Sau nầy chú nghe bà chị của chú ở Úc nói cô Tư con đã có chồng rồi nên chú hổng viết thư nữa, thời gian đó chú như người khùng. Chú chỉ biết tới đó, sau nầy chuyện xảy ra cho cô con chú có biết gì đâu. Ðầu đuôi ra sao con kể hết cho chú nghe đi.
- Hồi chú đi cô Tư bịnh liên miên, ói mửa, cô nằm vùi, mấy tuần sau cô mới biết mình mang bầu. Lúc đó cô như điên như dại, khóc hoài có khi ngồi một mình nói lảm nhảm như mắc nàng dưới. Ba con sợ chuyện xấu đổ ra ngoài nên sẵn dượng Thành, à chú còn nhớ dượng Thành lúc đó phụ mần đáy với ba con hông?
- Nhớ chớ, thằng Thành Ðất chớ ai.