|
Giản Chi(..1904 - 22.10.2005) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Y. Hoa & Bằng hữu
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà văn Hà Thúc Sinh
Do lời mời của Trung Tâm Nghiên cứu Chiến tranh và Hậu quả Xã hội Joiner Williams, (Joiner Williams Center for Studying of War and Social Consequences) và sự phối hợp của Ban chấp hành Cộng đồng Việt nam tại Massachusetts, một số nhà văn nhà thơ Việt Nam ở hải ngoại đã có mặt tại Boston để tham dự một cuộc Hội luận dành cho các nhà văn, tổ chức vào chiều ngày 1 tháng 7 vừa qua.
Trước đó, từ ngày 20 tháng 6, khoảng 200 nhà văn nhà thơ Hoa Kỳ và nhiều nước khác đã có mặt tại Đại học Massachusetts, để tham dự Khóa Hội Luận này, là khóa thứ 12, kéo dài 2 tuần lễ.
Trong diễn văn khai mạc, giám đốc điều hành trung tâm, tiến sĩ Kevin Bowen nhắc lại sơ lược lịch sử thành lập trung tâm cách đây 14 năm. Hơn 10 năm đầu họ chỉ mời những người cầm bút tại Việt Nam, qua nhà cầm quyền Hà Nội. Chỉ mới hai năm nay, do sự đòi hòi chính đáng của Cộng đồng Việt Nam ở Massachusetts, trung tâm này mới mời các nhà văn Việt Nam ở hải ngoại. Tiến sĩ Kevin Bowen đã nhân dịp giới thiệu với cử tọa ông Nguyễn Thanh Bình, đại diện Cộng đồng Việt Nam có mặt lúc đó.
Năm nay Joiner Williams Center cũng vẫn mời các cây bút của Hà Nội qua dự, đó là các ông Nam Hà, Quang Huy, Ngân Vịnh và Thu Bồn. Phía Việt Nam hải ngoại năm nay có mặt các nhà văn nhà thơ Hà Thúc Sinh, Hoàng Ngọc Liên, Trần Doãn Nho và Trần Trung Đạo. Năm ngoái cũng có mặt hai tác giả sau này, cộng với nhà văn Trần Hoài Thư.
Năm nay đã 70 tuổi, nhà thơ Hoàng Ngọc Liên, với mái tóc bạc phơ, ngỏ lời rất cảm động rằng ông không ngờ còn được đứng trước một diễn đàn quốc tế để nói lên một sự thật về chiến tranh Việt Nam, mà ông đã tham dự trong tư cách một quân nhân, trong suốt 21 năm. Ông ngỏ lời bằng tiếng Việt, hai sinh viên Harvard Đoàn Đức Tuấn và Quế Hương đọc bài viết của ông bằng tiếng Anh, nhan đề Untold Stories of A Poet. Thi sĩ Hoàng Ngọc Liên nguyên là Phó chủ tịch Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội Việt Nam Công Hòa, trong ban chủ trương Tạp chí Khởi Hành từ Việt Nam.
Nhà văn Hà Thúc Sinh sau đó đọc bài tham luận của ông bằng tiếng Anh, nhan đề The Devoted Friend: Literature (Văn Chương, Người Bạn Tận Tụy, đăng trong số này). Hà Thúc Sinh nổi tiếng từ trước 1975, và từ ngày ở hải ngoại, là cây bút sung sức và sáng tạo mãnh liệt nhất, đã đưa văn xuôi hải ngoại lên một bực cao. Trong 22 tác phẩm đã xuất bản của ông, cuốn Đại Học Máu, viết về những trại tù cải tạo sau 1975 tại Việt Nam là cuốn sách biểu tượng của một thời đại. Dịp này Hà Thúc Sinh đã phân phối hai cuốn sách viết bằng Anh ngữ, 50 Years of Violation of Human Rights in Communist Vietnam (dầy 500 trang), và Re- ligions in Communist Vietnam, dầy 134 trang, mà ông có góp phần thực hiện.
Nhà thơ Trần Trung Đạo đã thay mặt Cộng đồng cảm ơn Ban tổ chức trong Joiner Williams Center. Ngày 3 tháng 7, một buổi tiếp tân đưa tiễn đã diễn ra với đại diện các Hội đoàn, trong dịp này ông Chủ tịch Cộng đồng Lê Anh Tuấn đã ngỏ lời cảm ơn các văn nghệ sĩ từ xa về tham dự.
Cứ hễ nhắc đến nhân cách một nhà văn là tôi lại tin người ấy phải là người luôn đứng về phía thiện chống phía ác; hơn thế, tôi thấy các nhà văn thường có mặt trong những người tiên phong chống kẻ thù chung của dân tộc. Nói cách khác, nhà văn không thể làm tay sai cho kẻ áp bức, mà là kẻ bệnh vực kẻ bị áp bức. Nhưng điều gì xây nên một niềm tin như thế trong tôi? Rất có thể nó bắt nguồn từ vài câu danh ngôn như của Napoleon, “Một ngòi bút mạnh hơn ba sư đoàn,” hoặc của William Cobbett, “” mà tôi đọc đâu đó trên một tờ báo. Vào thời đó, thẳng thắn mà nói tôi còn quá non để đọc được Henry David Thoreau hay Albert Camus
Quãng ba mươi năm trước, một ngày tôi thấy bóng dáng một nhà văn đi vào giấc mơ tôi. Nhưng nghề viết của tôi khởi đi một cách chập chờn. Trên đường lắm lúc tôi dừng chân và tự hỏi nhiều câu liên quan tới sự chọn nghề. Tôi sẽ nói quý vị nghe lý do. Thế hệ tôi ở Việt Nam các học sinh trung học đều phải học vài bài thơ của Tự Đức, một ông vua nổi tiếng của triều Nguyễn và làm vua vào hậu bán thế kỷ 19. Dân chúng xem ông là một ông vua trí thức vì tác phẩm và cũng vì những sinh hoạt yểm trợ, phát triển văn học của ông vào thời ấy. Thời gian trôi qua, thơ ông có thể tôi không còn thuộc, nhưng một trong những dụ ngôn của ông thì tôi vẫn nhớ.
Ông bảo, “Lập thân tối hạ thị văn chương.” Ông mâu thuẫn với ông chăng? Xin nhớ thời ấy nước tôi còn đang bị Phát cai trị cách hà khắc, và nhiều nhà nho ái quốc vì chống Pháp đã bị án tử. Có thể nhà vua chỉ muốn nói rằng thanh niên nên lập thân lập danh cách thực tế và thực dụng hơn, chẳng hạn theo nghiệp võ khi đất nước đang cơn nguy biến. Ngụ ý của Tự Đức làm tối nghĩ ngợi. Có lần tôi tự hỏi: Có thể nào văn chương hoá ra rẻ mạt? Nó giúp người ta được gì trong việc giải quyết những trở ngại có thể gặp phải trong đời? Chẳng lẽ văn chương chỉ thuần một trò tiêu khiển?
Câu phán của nhà vua xem ra làm hỏng nặng hình ảnh một nhà văn trong tôi ngày tôi ở tuổi mười tám đôi mươi. Tuy nhiên, sự nản lòng chưa dừng ở đó. Lắm lần nhiều nhà văn lão thành đã kể về cuộc đời họ, đa số tóm tắt với một nhấn mạnh tương tự: Nghề viết không đủ bốc bỏ mồm! Nguyễn Vỹ, một nhà thơ ở vào thế hệ cha tôi, trở thành nổi tiếng không hẳn nhờ thơ của ông, mà nhờ một cầu cay đắng nói về nghề viết ông trải qua. Ông nói, “Nhà văn An Nam khổ như chó!"
Dẫu sao, chuyện viết lách đã từ từ trở thành người bạn tâm tình của tôi ở ngưỡng cửa đại học. Tôi mê cô nàng. Tôi chia với cô nàng đam mê của đời tôi. Nhưng, tôi không bao giờ hoài vọng cô nàng sẽ là một chỗ tựa lớn trong đời tôi, cho đến một ngày...
Lúc ấy là vào những năm giữa thập niên 60, khi cuộc chiến tranh Việt Nam leo thang. Ở đây quả tôi không muốn làm phí thì giờ của quý vị để than thở cho một miền đất tự do đã mất; hoặc để nhắc quý vị rằng dân nước tôi hiện đang lún sâu trong nghèo nàn và lạc hậu; hoặc để báo động với quý vị rằng một khi một đất nước đã bị lãnh đạo bởi những anh “chặt thịt,” thì sớm muộn gì dân nước ấy cũng biến thành một bầy bò khốn khổ, nếu như họ không có gan vùng lên để tự bảo vệ lấy nhân tính của họ. Những năm ấy thúc tôi viết và viết luôn đến bây giờ.
[...] Người ta thể nghiệm một cuộc chiến bằng những cách khác nhau, nhưng một số người chia sẻ cái nhìn giống nhau. Sao lại gửi lính Mỹ sang Việt Nam? Lợi gì chăng cho cuộc chiến tranh tự vệ của miền Nam Việt Nam? Sao lính Bắc Việt lại bị xích chân vào ổ vũ khí nặng trong công sự chiến đấu? Hà Nội muốn gửi thông điệp gì cho thế giới văn minh qua những mồ chôn tập thể ở Huế? Nixon đã thảo luận gì với Mao ở Bắc Kinh? Họ đã bày một ván cờ khác? Ai đã bị chọn làm dê tế thần, Sài gòn hiến cho cộng sản, hay Hà nội hiến cho tư bản, hay cả nước Việt Nam rách bươm này sẽ phải hiến cho một tương lai khốn khổ dài vô tận?
Những vấn nạn ấy quấy rầy tôi gần như từng ngày trong bữa cơm tối của một gia đình gồm ba thế hệ. Là bề dưới, tôi lặng lẽ ăn và không tìm đâu ra được những câu trả lời rõ ràng. Thời gian trôi qua với những tin buồn, sự đau thương và những đổ nát chồng chất. Tôi đã thấy, đã nghe, và đã rối trí. Tôi rơi vào sự khủng hoàng niềm tin. Tôi cảm thấy như bị hành hạ. Thần trí tôi đau nhức đến nỗi tôi mất tinh thần cả khi đã là một người lính chiến. Sau cùng, một ngày kia tôi đi đến một kết luận: Mọi điều thuận lý đều có thể thình lình biến thành vô lý trong thời chiến, kể cả chính nghĩa! Nhưng tôi còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng có gì trục trặc trong tôi rồi. Tôi tự hỏi: Làm cách nào mình thoát khỏi cái tình trạng thần trí bệnh hoạn này đây? May thay, ngày kia có tiếng nói trong tôi cất lên. Nó bảo, “Viết đi, rồi bạn sẽ tự do!"
Không lâu sau đó, bằng cách riêng, văn chương làm tôi phấn chấn và thúc tôi viết. Và đây là một lời thơ tôi viết thủa ấy:
ĐẤT NƯỚC ĐÈN LỒNG
Tìm nhau trong cơ hàn
Tìm nhau giữa bom đạn
Tìm nhau trong máu lệ chiến tranh
Tìm nhau theo Trường Sơn
Tìm sâu xuống miền Nam
Tìm đâu cũng chỉ thấy máu và xương.
Tìm cha trong bưng biền
Tìm con khắp thị thành
Tìm nhau xuôi theo bờ biển Đông
Tìm nhau trên mặt báo
Tìm nhau qua lời nhắn
Từ cơn ly loạn ấy cứ tìm quanh!
Phải chăng đất nước của tôi
Phận thiên đi chiếu nghìn đời
Thân hình cong gian khổ miệt mài
Như muốn chạy hoài.
Tìm em không ngại ngần
Vượt biên anh băng rừng
Tìm anh em giăng buồm lênh đênh
Việt Nam bao giờ tới
Bình minh một thời mới
Người dân tôi được sống phút nghỉ ngơi.
Ngày nay tất cả chúng ta đều đã biết chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế nào. Miền Nam thua, nhưng nó xứng đáng kiêu hãnh, bởi một lần hoàn toàn một mình, nó đã tiếp tục can đảm chống lại toàn thể khối cộng sản quốc tế sau khi nó bị bỏ rơi. Sự nhục nhã, nếu có, tất nhiên thuộc về những kẻ khác. Tôi là một trong hàng triệu tù nhân sau chiến tranh. Chẳng lời lẽ nào nói cho đủ được sự kinh hồn và cung cách tàn tệ kẻ thắng đã dùng để đối xử với chúng tôi. Sẽ không bao giờ có đủ thì giờ để kể quý vị nghe hết chuyện này bởi nó là câu chuyện rất lê thê. Quý vị từng thấy những chiến mã? Hãy tưởng tượng ra những chiến mã. Vâng. chúng tôi đã khổ nhục cả thể chất lẫn tinh thần trong thời gian tù tội cách khủng khiếp như con chiến mã phải đau đớn chui cho lọt qua cái lỗ kim. Tất nhiên trại lao động cộng sản không phải là những khách sạn Hilton, vì thế khổ nhục là chuyện không thể tránh khỏi. Điều đáng nói tới là bằng cách nào chúng tôi sống sót. Chúng tôi sống sót vì chúng tôi tin ở Chúa, chúng tôi giữ vững sự kiêu hãnh có chính nghĩa, và chúng tôi cười khi khổ nhục. Cá nhân tôi, tôi có thêm văn chương. Văn chương thực sự đã giữ cho tôi sống và tự do. Đây là một lời thơ tôi viết trong trí nhớ thời còn trong tù:
TỰ DO VÀ TÔI
Tự do như tiếng hát
Từ cơn yêu chất ngất
Là nước mắt cần cho
một người sống một đời
Là minh chứng của tôi
được mang trái tim con người
Tự do như muối khoáng
Tự do như nước uống
Là dưỡng chất trần gian
từ thời cát bụi
Mẹ chia máu thịt xương
để nếm đời riêng con
Dù đời thăng trầm đắng cay
Khổ sai hay là lưu đày
Dù đêm tối
Dù đi dây giữa vực đời
Lời tôi hát
vẫn vang dậy tự do thôi
Ngày kia mây nhuốm tóc
Lời kêu rêu tiếng đất
Và khi những nhịp tim
từ từ biếng lười
Tự do mới biệt tôi
bằng đoá hồng trên môi.
Giờ tôi sống lưu vong cũng do ý Trời. Nhưng lần này văn chương khuyến khích tôi viết nhiều hơn về sự thật, không gì hết ngoài sự thật. Có hai quyển sách phản ảnh một sự thật tôi muốn giới thiệu với quý vị, đó là quyển Hồ Sơ Đỏ (2) và Tôn Giáo Ở Việt Nam Cộng Sản (3). Nói tóm tắt, những quyển sách này được ấn hành là kết quả đóng góp từ nỗ lực của nguyên một gia đình, cha con, anh chị em; nó chứa sự thật về những vi phạm nhân quyền ở Việtnam cộng sản suốt 50 năm qua. Hôm nay có sẵn một số bản ở đây, tôi mời quý vịmỗinvị một bản, coi như món quà của gia đình chúng tôi.
Tôi đã viết từ những năm đôi mươi. Tôi nhớ rõ rằng tôi đã chọn nghề này không vì tiền cũng chẳng vì danh. Có phải vì thế tôi đã không hề hối hận khi chọn nghề văn? Thẳng thắn mà nói tôi khó mà dính mãi với nó nếu đã không có được sự ủng hộ của độc giả; nhưng thẳng thắn hơn, ít nhất cho đến lúc này, chỉ văn chương là chưa bao giờ bỏ rơi tôi lần nào khi tôi gặp hoạn nạn. Nó theo tôi như một con chó trung thành và không quản gì đến chuyện thăng trầm của tôi dù có trầm trọng đến mức nào. Đáng yêu hơn, nó luôn luôn khuyến khích tôi viết những điều chân, thiện và mỹ. Đó là lý do hôm nay tối đến đây để ca ngợi nó với tất cả trái tim tôi./.
___________
1. Nguyên bản tiếng Anh "The Devoted Friend: Literature," ban Việt ngữ của tác giả.
2. Nguyên bản tiếng Anh “Red File: 50 Years of Violations of Human Rights in Communist Vietnam,” Nguyễn Trí Văn, Phạm Vĩnh Xuân, Nguyễn Quốc Việt, Nguyễn Đại Tường, Nguyễn Thiệu chính hợp soạn, Vietnam Human Rights Watch xuất bån, USA 1995.
3. Nguyên bản tiếng Anh “Religions in Communist Vietnam", Nguyễn Quốc Việt và Nguyễn Đại Tường hợp soạn, Vietnam Human Rights Watch xuất bản, USA 1999.
- Văn Chương, Người Bạn Tận Tụy Hà Thúc Sinh Tham luận
- Người Bạn Hà Thúc Sinh Truyện ngắn
• Hà Thúc Sinh, Cuộc Hành Trình Dài Nửa Thế Kỷ Thơ (Trần Văn Sơn)
- Điểm Sách Đại Học Máu Của Hà Thúc Sinh (Nhật Tiến)
- Hà Thúc Sinh, chân dung thi sĩ (Nguyễn Mạnh Trinh)
- Đêm Việt Nam (Phạm Tự Trọng)
- Nhà thơ Hà Thúc Sinh: Giá một ngày thôi ta được sống (Đinh Quang Anh Thái)
- Thơ Hà Thúc Sinh (Mặc Lâm)
- Ông bạn già Hà Thúc Sinh Phan Ni Tấn)
- HÀ THÚC SINH, Cuộc Hành Trình Dài Nửa Thế Kỷ Thơ (trần văn sơn)
- Nhà Văn Hà Thúc Sinh (saigonweeklyonline.com)
- Hà Thúc Sinh – Tác giả và Tác phẩm (Nguyễn & Bạn Hữu)
- Hà Thúc Sinh. Cuộc đời và tác phẩm (Nguyễn & Bạn Hữu)
• Văn Chương, Người Bạn Tận Tụy (Hà Thúc Sinh)
• Người Bạn (Hà Thúc Sinh)
- Đám ma văn hóa (A Funeral For Culture)
- Thư của nhà văn Hà Thúc Sinh gửi Hội đồng Giải Văn Việt
Bài trên mạng:
- sangtao.org - vietmessenger.com
- vanviet.info - vietnamthuquan.eu
• Văn Chương, Người Bạn Tận Tụy (Hà Thúc Sinh)
• Về Chân Dung 99 Nhà Văn Việt Nam Đương Đại (Nguyễn Đăng Hành)
• Buổi sáng của một ngày hưu (Nguyễn Tường Thiết)
• Giới thiệu Tạp luận "Theo Dấu Thư Hương II" của Trịnh Y Thư (Văn Học Press)
• Thầy Doãn Quốc Sỹ: Khu Rừng Lau Vẫn Còn Đó (Nguyễn Công Khanh)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |