|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà văn Trần Thị Ngh.
Nơi Trần Thị Ngh. vận tốc làm cho người đọc giật mình: "Mặt mụ ta thấy ghét thật. Da căng bóng, hai con mắt nhỏ, tóc chải xước ra sau túm lại thành cái búi củ hành chừa cái trán trống trên đó một mụt ruồi bằng đầu đũa đậu lửng lơ giữa đôi chân mày đã bị cạo trọc lóc để thay vào hai đường xăm vụng về. Đầu đít một mét tư, mụ ngồi thun lại còn có mấy tấc sau lưng ông xe ba bánh, hai tay bấu hai bên yên. Tưởng tượng từ đàng xa lao xe 100 phân khối tới mục tiêu, tôi có thể cày nát mụ không kịp ngáp. Chắc chắn lúc đó mụ đang nhìn kẻ sát nhân trong cự li gần."
(trích Lạc đạn và mười truyện ngắn, nxb. Thời Mới, Toronto, 2000, trang 148)
Đó là vận tốc của những ý tưởng độc ác chảy trong đầu người.
Từ quan niệm nhân bản truyền thống, một số nhà văn chuyên trị những ý tưởng đẹp, hành động cao cả của con người. Ở Trần Thị Ngh., ngược lại, thường là những ý tưởng quái đản, những tính toán hèn hạ được ghi lại rất rõ ràng rành mạch. Sự ngược đời đó tạo nên một tác phong văn học đặc biệt.
Ở Trần Thị Ngh. những nét ác, nét xấu trong các nhân vật được mô tả một cách chi ly. Giả dụ bất chợt, nhân vật có một thoáng nào đó thấy mình hơi bị tốt thì lập tức, cô ta hay bà ta phải xét lại xem cái tốt đó có thực không hay là ẩn sau nó là một hậu ý xấu xa. Thủ pháp văn chương ấy xoáy vào chỗ xét lại đó: tạo ra những nhân vật, xưng tôi, rất tàn nhẫn với chính mình và cái tôi ấy được tác giả định nghĩa như sau: "Tôi thường tham dự mọi thứ với tư cách một người không phải là tôi. Cái tôi thực sự chỉ biết rình mò những vai trò do chính mình thủ diễn." (sđd, trang 104). Câu này giải thích phần nào biệt hiệu Trần Thị Ngh. và cách trình bày bìa sau cuốn Lạc đạn. Tại sao là Ngh. mà không phải Nguyệt Hồng? Nguyệt Hồng có lần nói vì viết văn giấu mẹ, nên phải để tên tắt. Nhưng khi mẹ biết rồi, tại sao không đổi? Tại sao bìa sau cuốn truyện lại in tấm hình tác giả giơ hai tay lên che mặt? Có phải vì đã là Ngh. cho nên phải che mặt chăng? Hay vì muốn che mặt để có thể đa hóa nhân cách? Một thái độ ít thấy trong văn chương. Đó cũng là thái độ mổ xẻ hiện sinh con người trong một tư thế rất đặc biệt: tư thế Trần Thị Ngh. alias Trần Thị Nguyệt Hồng.
Triết học hiện sinh xuất hiện ở miền Nam những năm 60, phong trào khá rầm rộ, tạo ra một từng lớp trí thức trẻ tuổi dấn thân, có ý thức về tự do và bản ngã. Ảnh hưởng triết học hiện sinh phần nào giải thích tính chất đa diện của xã hội miền Nam thời bấy giờ: Ai đánh nhau cứ đánh nhau. Ai phản chiến cứ phản chiến. Ai sa đọa cứ sa đọa. Ai đạo đức cứ đạo đức... Một xã hội có nhiều màu sắc đối chọi nhau, những từ ngữ "xuống đường", "nổi loạn", "buồn nôn" ... trở thành một thứ nha phiến mới của tinh thần, được tiêu thụ trên nhiều cấp độ, trong học đường cũng như ngoài xã hội. Và trong văn chương, nhiều người đưa luồng tư tưởng mới này vào sáng tác. Họ đem vào văn học những cách nhìn đời khác: mạnh bạo, trâng tráo, trắng trợn hơn và đôi khi cũng sâu sắc, đau đớn hơn.
Ở thời điểm ấy, xuất hiện một số nhà văn phụ nữ như Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ... có thể họ không trực tiếp đọc triết học hiện sinh, nhưng đã gián tiếp chịu ảnh hưởng văn chương hiện sinh, chất tự do trong lối sống, và sự nhận thức về mình, đã ngấm vào họ, qua ngã nào không thể biết được. Khiến cách viết của họ khác hẳn với giọng văn lãng mạn hoặc tả chân thời trước. Họ không "mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây" nữa. Và nếu họ có tả chân thì lối tả chân của họ cũng chẳng còn giống một tý gì lối viết của Vũ Trọng Phụng hay Nam Cao. Bởi đã có một khác biệt sâu xa: những ngòi bút tả chân truyền thống chĩa bút vào nhân vật mà tả, tức là vào người khác, còn họ, bây giờ họ chĩa bút vào mình, họ tả chân chính mình. Ví dụ: Túy Hồng dửng dưng nhìn vào đời tư của mình, vào đời tư của người thân, lạnh lùng phân tích một cách cay độc, không nề hà gì cả. Họ có thể nói toẹt ra hết, không có vấn đề nào là cấm kỵ, không có vấn đề nào là không được đả động đến. Thật sự những nhà văn nữ miền Nam thập niên 60 đã tạo được một chân dung khác của văn học, họ dẵm lên lãng mạn tiền chiến bằng những bước chân trần trụi ngổ ngáo của con người tự do phân chất cái tôi của chính mình.
Nguyễn Thị Hoàng viết Bàn tay học trò, phá những cấm kỵ của xã hội về tình yêu cô giáo và học trò. Thụy Vũ, Nhã Ca, đều đưa ra những quan niệm mới về người phụ nữ: tự bứt mình khỏi những công thức và đạo lý xã hội. Khái niệm về cá nhân cũng rõ ràng hơn. Khái niệm về thân xác cũng minh bạch hơn. Họ chủ động trong đời sống, đời sống tình cảm cũng như đời sống thân xác.
Chính những ý thức sáng suốt về bản thân đã đưa đến thái độ: nhà văn nhận xét về mình một cách mỉa mai và cay độc. Đó là sự tự trào, sự lật đổ chính mình. Lật đổ những thần tượng. Lật đổ tình yêu lý tưởng. Lật đổ những khóc lóc mùi mẫn về cuộc tình tan vỡ. Thể xác được đưa ra như một yếu tố tiên thiên (Nietzsche), đi trước tình cảm. Và sau sự trao đổi thể xác, người phụ nữ thời mới thường ráo hoảnh, dửng dưng, chôn sâu những tình cảm sướt mướt của mình trong sự bình tĩnh đáng ngại. Đó là cuộc cách mạng đích thực, người phụ nữ tự giải phóng mình khỏi nhà tù đạo đức xã hội, khỏi giáo điều Khổng Mạnh tứ đức tam tòng, nhưng đồng thời họ cũng phải vào đời một cách dấn thân hơn, quyết liệt hơn. Không còn thủ phận nội trợ trong gia đình mà phải xông xáo ngoài xã hội, nhận trách nhiệm về hành vi, về cách ứng xử của mình. Những nhà văn nữ ấy, thập niên 60, vô tình hay hữu ý đã góp phần vào cuộc cách mạng phụ nữ, mà Simone de Beauvoir, tại Pháp đã đi tiên phong, cầm đầu ngọn đuốc tư tưởng khi bà viết Le deuxième sexe (Phái yếu - Phái thứ nhì), đặt vấn đề ý thức về bản thân như điều kiện tiên quyết của hiện sinh con người - người phụ nữ.
Nhưng phải nhấn mạnh rằng những nhà văn như Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Thụy Vũ, ... phần lớn đều đã tiếp nhận hiện sinh một cách gián tiếp: Họ vô tình mà hiện sinh. Cuối thập niên 60, một khuôn mặt trẻ xuất hiện: Trần Thị Ngh. Ngòi bút Trần Thị Ngh., lần này đích thực có ý thức hiện sinh, nghĩa là có phong cách hiện sinh trong chiều sâu, có những nhận xét sâu sắc về bản thể, về tự do, về hành động. Về tồn tại. Tại sao tồn tại.
Trần Thị Ngh. dùng lối viết lạnh, không cho tình cảm nhuộm hồng, nhuộm xanh bầu trời. Tác giả trải tình huống lõa thể trong tư thế bấp bênh để phơi bày sự thực.
Hơn hai mươi năm sau 1975, Trần Thị Ngh. xuất hiện trở lại với hai tác phẩm. Tập đầu nhan đề: Truyện ngắn Trần Thị Ngh. do nhà xuất bản Văn Nghệ, tại California in năm 1999 và tập thứ nhì mang tên Lạc đạn và mười truyện ngắn, do nhà xuất bản Thời Mới tại Toronto, Canada, in năm 2000. Hai tập truyện này chắt lọc những tác phẩm khá tiêu biểu cho cá tính văn học của Trần Thị Ngh.
Sinh năm 1949. Bắt đầu viết văn năm mười lăm tuổi (mục Các em viết, báo Sống, do Duyên Anh phụ trách), truyện ngắn đầu tiên đăng báo người lớn viết lúc 18 tuổi. Truyện ngắn của Ngh. đăng rải rác trên các tạp chí: Văn, Vấn Đề, Thời Tập, Thời Văn và được giới cầm bút chú ý ngay. Sau chọn thành một tập, mang tên Những ngày rất thong thả, do Trí Đăng in năm 1975, tại Sài Gòn, nhưng chưa kịp phát hành thì gặp biến cố 30/4/1975.
Im lặng trong hơn hai mươi năm. 1997, Trần Thị Ngh. xuất hiện lại trên văn đàn với những truyện ngắn mới. Ngòi bút sâu sắc và từng trải hơn. Viết ít nhưng viết kỹ. Đặt ra những chủ đề khó khăn hơn, như vấn đề thân xác, vấn đề tự tử, vấn đề tội ác v.v...
Trần Thị Ngh. xuất phát từ mạch sống của xã hội miền Nam những năm 60, một xã hội chiến tranh nhưng chịu mở cửa đón những luồng tư tưởng mới: từ Mác xít đến hiện sinh. Do đó, giới trẻ miền Nam, thời 68, đã có những phản ứng bất ngờ đối với chiến tranh, đối với tình yêu và tội ác.
Ở Trần Thị Ngh., những dấu hiệu thay đổi lộ ra trong sự nhận diện bản thân, đưa đến ý thức con người tự do và độc lập, đưa đến sự cảm nhận chất nhạt nhẽo và chán chường của cuộc đời. Đời đáng sống hay không đáng sống? Tự tử là một chủ đề. Nhận diện tội ác là một chủ đề khác.
Nếu đem đối thiếu cái tôi của Trần Thị Ngh. với cái tôi cá nhân, trong văn học lãng mạn tiền chiến, sẽ thấy một khác biệt rất rõ: cái tôi lãng mạng là cái tôi chưa dám là tôi, cái tôi bị trói buộc bởi lễ giáo gia đình và bởi chính bản thân con người chưa thoát được những thành kiến nẩy sinh từ môi trường xã hội.
Ảnh hưởng của triết học hiện sinh thúc đẩy ý thức cá nhân đi xa hơn nữa: Con người ý thức được sự tự do và trách nhiệm của mình. Ý thức được sự độc lập của mình với các thành kiến xã hội, với các hình thức quyền uy chính trị. Sự tự do đến tự bản thân, do bản thân mà ra, chứ không phải là thứ tự do bao cấp, do cha mẹ định đoạt hoặc xã hội hay chính quyền cho phép. Và cũng chính từ ý thức tự do này nẩy sinh mầm mống "hoang mang" và tuyệt vọng nơi con người.
Tác phẩm Lạc đạn đưa ra những con người có ý thức tự do. Nhân vật chính trong truyện dài Lạc đạn có thể coi như một Nguyệt Hồng âm bản. Dĩ nhiên là hoàn cảnh sống của nhân vật có thể là hoàn toàn hư cấu. Nhưng những suy nghĩ, những cách ứng xử của nhân vật này phải là của một Nguyệt Hồng, cô sinh viên hai mươi tuổi những năm 60-70, rất đợt sóng mới, vừa đọc Bonjour tristesse (Chào buồn) của Françoise Sagan. Nhưng Nguyệt Hồng tiến xa hơn các tiểu thuyết của Sagan trong chiều sâu của ý thức. Nguyệt vượt trên những đợt sóng mới hời hợt bề ngoài, mà Sài Gòn là một biểu tượng, để tìm đến những suy nghĩ sâu sắc về bản thân.
Nguyệt, cô gái Việt mới lớn đối chọi với xã hội Việt còn nhiều cổ lệ, đã ý thức được rằng tự do phải phát xuất từ bản thân. Nguyệt tìm cách sống tự lập, độc lập, chịu trách nhiệm về lối sống đó. Nguyệt ý thức được thân xác thuộc về mình chứ không phải của cha mẹ. Thân xác là mình, mình muốn trao mình cho ai, vào lúc nào là do mình quyết định, chứ không phải do cha mẹ đặt đâu con xin ngồi đấy. Nguyệt kể: "Tôi là một người có tâm sự, nhìn cuộc đời bi quan và với chút ít học thức hiểu biết nhờ sách vở tôi làm bộ khinh miệt đời sống, sống buông thả liều mạng, làm như tôi là một người đang bị nhiễm hóa bởi tất cả những cái đó rồi đột ngột tôi gặp tình yêu. Dự mầu nhiệm cải biến tôi thành ngọt ngào nhỏ nhẹ. Tôi làm như thể tôi không thể sống thiếu Dự. Thực ra tôi ý thức được hết những chuyện này." (sđd, trang 38).
Trong lời thổ lộ trên đây, người nói rất tỉnh táo khi nhận diện những hành động của mình. Rồi những chữ "làm như tôi", "tôi làm như", "tôi làm bộ" ... hoặc "Thực ra tôi ý thức được hết những chuyện này", tóm lại là gì? Là câu chuyện tình mà Nguyệt kể ở đây, là do chính nàng bày ra, nàng muốn cho anh chàng có tên Dự kia biết là nàng đang yêu anh ta. Nhưng thực sự Nguyệt yêu người khác. Nàng yêu Trường, người anh rể họ, tình yêu không thể toại nguyện. Nguyệt chọn Dự, lính thủy quân lục chiến mặc đồ rằn ri, mẫu "người hùng thời đại" cho cuộc thử nghiệm gặp gỡ thân xác lần đầu. Kết quả vô vi, vô cảm. "Tôi nằm ngửa ngó ngược lên trần. Đêm ngoài tầm hiểu biết. Má ngủ chưa má. Má biết con đang ở đâu với ai không. Đêm ở xa má lo lắng. Không ai kéo chăn lên ngực con, má xót xa nghe con ho rúm ró vặn vẹo..." (sđd, trang 43).
Cuộc thử nghiệm bạo trợn trên đây chỉ để chứng tỏ thân xác là của riêng mình, chứ không hề chối bỏ tình mẫu tử: Mẹ cha là "tác giả" tôi, cũng như nhà văn là tác giả tác phẩm. Nhưng khi tôi, tức tác phẩm đã ra đời, nó trở thành một thực thể độc lập, nó có một đời khác, không còn tùy thuộc vào tác giả nữa. Hành trình người cũng là hành trình của một tác phẩm nghệ thuật mà mẹ cha là tác giả: Khi đã vào đời, nếu muốn thực sự trưởng thành, thực thể con phải tự biết cắt rốn. Phải tự biết cai sữa. Phải tự biết rời vú mẹ. Điều này rất đớn đau.
Nguyệt trong Lạc đạn là một thực thể con như thế, tự do và ý thức được sự tự do của mình. Nguyệt độc lập. Tự lập thân. Tự thử nghiệm những cuộc tình khác nhau, kể cả sự đồng tính, với Thắm.
Người yêu là Trường, anh chàng này đứng ngoài "góp ý" đôi khi an ủi, đôi khi khích lệ, đôi khi phân tích những hành động của Nguyệt như một kẻ bàng quan. Tất cả xẩy ra một cách lạnh lùng.
Nguyệt thường cắt đứt những đoạn đời của mình bằng một số nhận thức sáng suốt, đại loại: "Tôi bỏ cư xá trước hết vì cảm thấy không thể tiếp tục đời sống hợp quần trong đó tôi xả thân bằng thiện chí giả dối. Chỉ là một cái vỏ mà thôi. Tôi tưởng tôi hạnh phúc với Thắm nhưng rõ ràng là mọi người đã đến với nhau với ít nhiều tư lợi." (sđd, trang 68).
Nếp sống tự do và độc lập luôn luôn đòi trả giá và cũng được trả giá: "Tôi phải đi lang bang kiếm tiệm ăn tiện đường đi về dù ở Huế đàn bà con gái ngồi quán một mình kể như được coi là phi thường" (sđd, trang 68). "Những ngày về chỗ ở mới (một mình) mới thấy mình hoàn toàn độc lập không cần phân bua chuyện chi với ai, không ai dòm ngó xét nét." (sđd, trang 69). "Có những đêm tôi nằm im chịu trận, cố sua đuổi cơn sốt thịt da nhen nhúm, đùa đẩy hết những cảm giác có thể nhớ lại, đã được biết qua một lần ở đâu đó." (sđd, trang 69).
Nhìn về khía cạnh nam nữ bình quyền, thì rõ ràng Nguyệt không đòi hỏi nữ quyền. Nguyệt thừa thông minh để hiểu: về quyền lực không thể đòi hỏi hay thương lượng mà được "họ" cấp cho. Về quyền lực, muốn có, phải cướp, như cướp chính quyền, hoặc phải tự xác định bằng khả năng. Người phụ nữ không có sức mạnh để cướp quyền, nên họ bắt buộc phải chọn giải pháp thừ nhì: Nguyệt xác định sự bình đẳng bằng chính hành động. Bằng ngòi bút. Trong tiểu thuyết Việt Nam, người ta chỉ thấy những người đàn ông đi lang thang một mình, ăn cơm tiệm một mình, về nhà trọ một mình. Bây giờ xuất hiện một nhân vật nữ làm đầy chuyện "một mình" như vậy, chẳng "phi thường" sao? Bây giờ tức là khoảng năm 68-70. Khi Trần Thị Ngh. viết Lạc đạn.
Không phải chỉ có một mình Nguyệt là có ý thức tự lập, tự do mà hầu như những nhân vật nữ khác trong Lạc đạn đều ít nhiều có cá tính như thế. Mẹ Nguyệt là một mẫu người tự lập khác, tự xác định mình trong xã hội cổ. Bà đã truân chuyên trải qua những cuộc đổi đời, Tây đô hộ rồi cách mạng bùng nổ. Con bà theo kháng chiến. Bà là mẹ chiến sĩ, nuôi bộ đội, nhưng cuối cùng gia đình bà bị liệt vào hạng cường hào, bị đem ra đấu tố...
Tất cả những dập vùi này đưa ông Chính, chồng bà, đến chỗ nghiện ngập, gần như điên dại. Nhưng bà không hề nao núng, bà vẫn đứng vững nuôi con, nuôi mười một đứa con đến khi không còn đứa nào cần bà nữa. Đó là một người đàn bà thuộc thế hệ trước, nhưng tự mình bước trên hoàn cảnh để đứng vững, làm cột trụ gia đình khi người chồng ngã gục, đầu hàng hoàn cảnh.
Vì vậy, ý thức (phụ nữ) độc lập, tự xác định mình, không chỉ là sản phẩm của xã hội hiện đại, người đàn bà đã được "giải phóng", hoặc của triết học hiện sinh, mà nó tiềm ẩn trong con người từ khi có con người, từ những bà Trưng, bà Triệu, từ những bà Tú Xương, "quanh năm buôn bán ở mom sông, nuôi đủ năm con với một chồng". Nhưng những ý thức trách nhiệm ấy chỉ được hiểu, được giải thích và khai triển dưới con mắt một chiều, vụ lợi của xã hội phụ quyền, để biến họ thành những "tấm gương" liệt nữ trả thù chồng như bà Trưng, bà Triệu; hoặc thành mẫu người tận tụy tần tảo nuôi chồng như bà Tú Xương. Cả hai nhãn hiệu ấy đều có chất phục tòng, đều có lợi cho xã hội phụ quyền. Nếu nhìn những người đàn bà này, dưới một khía cạnh khác, sẽ thấy: đó là những người phụ nữ đã trực tiếp nhận thức được phần trách nhiệm của mình. Họ hành động như những cá nhân độc lập, không phụ thuộc vào một thứ quyền uy nào. Bà Trưng, bà Triệu có ý thức quốc gia. Bà Tú Xương có ý thức gia đình. Họ không phải là những kẻ tòng phu. Mà phu tòng họ. Những nhân vật như vậy, hiện diện trong các truyện của Trần Thị Ngh.
Ngược lại, những nhân vật nam thường bị nhập vào "phái yếu", dẫn đến những tình trạng khôi hài, ví dụ trong truyện ngắn Người thuận tay trái, một công tử, con một, kiểu d'Artagnan hiện đại, được người vợ tả như sau: "Ngay đêm tân hôn chàng khóc. Sao vậy? Nhớ má. Tôi dỗ dành, ngủ đi, mai tôi đưa ông về nhà trọ thăm bà già." (Truyện ngắn Trần Thị Ngh., trang 78). Hoặc trong Lạc đạn, ông Chính, cha Nguyệt, là một trường hợp "tòng thê", một thứ Tú Xương không văn tài. Rồi đến Trường, Dự, Tấn v.v... những người đàn ông trong cuộc đời Nguyệt đều trở thành những đồ "phụ tùng", hoặc họ ngồi nhìn Nguyệt hành động để "góp ý" như Trường, hoặc họ chỉ là những thử nghiệm của Nguyệt như Dự và Tấn. Tóm lại, xã hội dưới mắt Trần Thị Ngh. đã bị đảo ngược: phái xưa nay chuyên quyền độc trị gia đình, phái nhất, phái khỏe, bị lật nhào, trở thành phái hai, deuxième sexe, loại công dân hạng nhì với tất cả hệ lụy đáng thương.
Từ sự lạnh lùng nhìn nhận "bản thân", xuất phát sự lạnh lùng nhìn cuộc sống. Thấy những nhạt nhẽo vô bổ trong đời sống hàng ngày: mọi người chỉ làm sơ sịa những động tác của một diễn viên tồi cốt đóng vội vai trò của mình. Như vậy sống làm gì?
Chán đời từ nhỏ. 11 tuổi uống thuốc ngủ lần đầu. 16 tuổi viết nhật ký, bắt đầu yêu và thù gia đình. 17 tuổi, uống thuốc ngủ, ngủ một mình trong phòng hai ngày không ai biết. Tóm lại nhiều lần tự hủy mà không chết.
Đề tài tự tử, xoay đi xoay lại nhiều lần trong tác phẩm của Trần Thị Ngh. như một cách xử lý đối với thân xác. Một biện pháp tuyệt vọng. Nhưng do một đẩy đưa nào đó, mọi chủ mưu tự hủy đều thất bại. Dường như hành động tự hủy không phải là một giải pháp "thích đáng". Song song với vấn đề tự hủy, tội ác cũng được nêu ra, không phải như một bản cáo trạng của quan toà mà ở đây, nhà văn chỉ là kẻ thuật lại những hành trình đưa đến tội ác.
Truyện ngắn Phòng cho thuê mô tả tội ác của một bà già không chịu nổi tính chất quân phiệt của người chồng, bèn tìm cách "giải quyết vấn đề". Truyện ngắn Khoanh vùng trình bày một tội ác khác: người đàn bà tìm cách giết tiếng gà gáy, bởi chúng chẳng khác những máy phóng thanh phường, bạ lúc nào cũng rú lên, kể cả nửa đêm về sáng, bức bách người ta phải tỉnh dậy để nghe nó "gáy". Sự cưỡng bức nghe cũng có thể dẫn đên tội ác. Ở truyện ngắn Lexomil, kẻ giết người không chịu được "tiếng ồn rầm rĩ" suốt ngày đêm do một mụ hàng xóm quyền uy gây ra. Ðó cũng là một trường hợp bị nhồi tai, đến chỗ không thể "đút nút lỗ tai được", dẫn đến án mạng.
Những nguyên nhân rất tức cười đưa đến những hậu quả không cười: Những sự áp đặt phi lý nhất, tào lao nhất, tiếu lâm nhất lúc nào cũng có thể dẫn đến một kết thúc bi thảm.
Ở hai truyện ngắn Tuyệt tác và Chín biến khúc quanh tuyệt tác, Trần Thị Ngh. khai triển hình thức tân liêu trai: quan hệ dục tính giữa họa sĩ và tác phẩm, trong cuộc gặp gỡ phảng phất Tú Duyên-Giáng Kiều. Với văn phong gọn và sắc, Trần Thị Ngh. mô tả não trạng nhầy nhụa của người nghệ sĩ trong cơn hỏa mộng sáng tác.
Là một trong những nhà văn có tư chất độc đáo, những vấn đề chị đưa ra thường trầm trọng, nhưng luôn luôn được viết bằng giọng văn gần như vô cảm. Làm cho cái tàn nhẫn càng tàn nhẫn thêm, cái thương tâm càng thương tâm hơn, cái cô đơn càng cô đơn hơn. Những nhân vật của Trần Thị Ngh. như những xác người đang cố sống nốt một đoạn thời gian chờ giờ khâm liệm.
Paris 12/2001
- Nói chuyện với dịch giả Trần Thiện Ðạo Thụy Khuê Phỏng vấn
- Giáo Sư Nguyễn Văn Trung Thụy Khuê Nhận định
- Trí Thức Và Văn Nghệ Miền Nam Đứng Trước Văn Hóa Và Triết học Tây Phương Thụy Khuê Phỏng vấn
- Lê Thị Lựu, ấn tượng hoàng hôn (1911-1988) Thụy Khuê Nhận định
- Paris, người Việt và tranh Lê Tài Điển Thụy Khuê Nhận định
- Trần Thị Ngh., Lạc Đạn và mười truyện ngắn Thụy Khuê Khảo luận
- Võ Đình: Tâm, Thân, Văn Và Vẽ Thụy Khuê Phỏng vấn
- Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư Thụy Khuê Khảo luận
- Giới thiệu tác phẩm Nguyễn Chí Thiện, Trái tim hồng của Trần Phong Vũ Thuỵ Khuê Giới thiệu
- Hoàng Cầm treo cổ kịch thơ của mình Thụy Khuê Khảo luận
• Trần Thị NgH, viết: xạo ke , vẽ: cà rỡn (Nguyễn Lệ Uyên)
• Trần Thị Ngh., Lạc Đạn và mười truyện ngắn (Thụy Khuê)
Trần Thị NgH (Phan Nguyên)
Đi tìm vài góc khuất trong văn chương Trần Thị NgH (Trần Hữu Thục)
'Người Đàn Bà Có Hai Con,' một truyện tình lạ của Trần Thị NgH (Trần Doãn Nho)
Ba Mươi Tháng Tư Đọc Lại Lạc Đạn Của Trần Thị Ngh. (Nguyễn Quốc Trụ)
Nói chuyện cùng nhà văn Trần thị NgH (Minh Thùy/RFA)
Trò chuyện với nhà văn Trần Thị NgH (kỳ 1) (dutule.com)
Trò chuyện với nhà văn Trần Thị NgH (kỳ cuối cùng) (dutule.com)
- Chủ Nhật
Bài viết trên mạng:
- damau.org - hopluu.net
- vietbao.com.
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
• Trò chuyện với dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |