|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Ngoài kia tuyết đổ trắng xóa một trời, tôi ôm trong tay tập truyện “Trọn Đời Yêu Thương” của nhà văn Duy Nhân vừa gửi tặng, mà thấy ấm cả hồn mình.
“Trọn Đời Yêu Thương” là tuyển tập gồm có 36 truyện ngắn, cũng là tâp truyện thứ tư của nhà văn Duy Nhân. Như trong lời tựa, Duy Nhân đã nhắc nhỡ “cây có gốc mới nở cành xanh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu.” (*). Tư tưởng này đã quán xuyến xuyên suốt 36 truyện ngắn của tập truyện Trọn Đời Yêu Thương.
Nhà văn Duy Nhân đã từng đi qua hai cuộc chiến và những trải nghiệm sống dưới chế độ Chuyên Chính Vô Sản. Sự lựa chon cuối cùng là anh phải thoát ly khỏi sư kềm kẹp của đôc tài đảng trị, chấp nhận cuộc sống luu vong. Anh và gia đình đến Mỹ từ năm 1997, theo diện bảo lãnh, tuần tự ra đi, ODP-Orderly Departure.
Mở đầu là truyện ngắn “Việt Kiều Về Quê” nhà văn Duy Nhân đã không ngừng tố cáo chế độ Công Sản đã biến chất con người. Con người sanh ra và lớn lên dưới chế độ CSXHCN mất cả lương tri, đạo đức chỉ vì cơm áo gạo tiền. “Mẫu người tiêu biểu của đảng và nhà nước bây giờ là như vậy đó anh. Vừa ngu dốt vừa tham lam vừa hách dịch vừa hèn hạ nữa” đó là kết luận của tác giả Duy Nhân qua truyên ngắn “Trưởng Phòng Công An Phường”.
Những truyện còn lại “Phép Lạ” và ‘Giầy Dép Còn Có Số” là những trải nghiệm của nhà văn Duy Nhân sống dưới chế độ VNCH -Từ một chuyên viên ngân hàng, năm 1972- Mùa Hè Đỏ Lửa anh trở thành sỹ quan Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Vĩnh Bình. Anh đã thoát chết cũng như anh xông pha dưới làn tên mủi đạn nhiều lần, may mắn anh vẫn sống cho đến ngày anh được biệt phái về làm việc ở Ngân Hàng Quốc Gia. “Khi cởi bộ đồ lính ra, tôi cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng tưởng chừng như mình có thể bay lên được“. Đó là cảm tưởng của nhà văn Duy Nhân về những năm tháng anh phuc vụ như một sĩ quan Đia Phương Quân...
Đến ngày 30-4-1975, cùng vận mệnh của tổ quốc, anh cũng như những bạn bè khăn gói đi vào trại cải tạo tập trung. Theo lời anh kể, anh may mắn hơn bạn bè, có người học tập cải tạo tập trung kéo dài đến 17 năm. Riêng anh và số nhỏ chỉ hoc tập cải tạo tập trung trong vòng 30 đến 36 tháng, dưới 3 năm. Sau khi được lệnh tha, anh rời khỏi trại học tập về nhà, và sau khi được xã chế, anh may mắn được cách mạng mời vào làm việc trong ủy ban Quản Lý Kinh Tế Tài Chánh cho công ty xuất nhập khẳu của Đảng. Sau một thời gian “tôi thôi làm cơ quan nhà nước, tôi đã làm ở 3 ngân hàng khác nhau trước khi được người em vợ bảo lãnh đi Mỹ vào tháng 7 năm 1997”. Và anh hân hoan kể lại cuộc sống của anh và gia đình tai Mỹ “hiện tại tôi được chính phủ trợ cấp hằng tháng, đủ chi dùng hàng ngày vì không có nhu cầu gì lớn lao. Đau yếu có nhà nước lo, phiếu mua thực phẩm cũng được cung cấp, sử dụng di chuyển cộng cộng miễn phí...” Đó là chưa kể anh và gia đình sống trong căn nhà theo chế độ Housing, anh chỉ trả 10% tiền thuê nhà... Như vây đối với nhà văn Duy Nhân và những bạn bè cùng chí hướng vói anh, nước Mỹ là một thiên đường hạ giới!
Dù sống trên thiên đường Mỹ, Việt Nam vẫn là quê hương yêu dấu của anh! Sau năm 2000, anh vẫn thường xuyên trở lại thăm quê hương Việt Nam và lưu lại cả tháng. Có năm anh về thăm nhà đến hai lần. Có lần anh và gia đinh đi du lich bằng tàu thủy, anh và gia đình ghé thăm Hà Nội. Anh đi thăm và chụp hình, video những danh lam thắng cảnh như khu du lich Hoàng Liên Sơn, Trung tâm Resort trên vịnh Nha Trang, bãi biển Sầm Sơn, Vịnh Hạ Long, ruộng bậc thang ơ vùng cao Tây Bắc Việt Nam. Hoặc anh đi thăm những di tích lịch sử như Hang Pắc Bó ở Cao Bằng
Nhà văn Duy Nhân vắt kiệt sức mình trên từng trang giấy khi viết về gia đình, dòng họ, viết về “Anh tôi”, “Ba tôi”, ”Ngoại tôi”, “Ông ngoại”... Mỗi người đều cho anh gương mẫu để sống. Với truyện ”Ba tôi” anh nhắc lại câu ca dao ngạn ngữ: “Công cha như núi Thái Sơn-Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”...Nói về Mẹ, nhà văn Duy Nhân thổ lộ “Tôi không được ở với Mẹ ngay từ thuở nhỏ khi tôi mới 11 tuổi...Thành thử tôi không có một kỷ niệm nào về mẹ. Đôi khi cố vận dụng ký ức thì cũng chỉ thấy hiện ra những hình ảnh rất mờ nhạt. Những chuối ba hương, xôi nếp một, đường mía lau, và mật ngọt của đời đối với tôi cũng chỉ là mơ ước chập chờn trong giấc ngủ cô đơn hay lắng đọng trong những phút giây tĩnh lặng nhất của lòng mình”...
Đoạn tiếp theo là ký ức của nhà văn Duy Nhân trong giai đoạn anh hơp tác với chế độ cộng sản. Nhà văn Duy Nhân vẫn bị ám ảnh thường xuyên, về chuyên Hơp Tác Xã, những câu chuyên trao đổi giữa nhà văn và các nhân vât thuộc cấp cao của anh, như truyện “Ông Chủ Tịch”. Thật lý thú khi đọc truyện “Khẩu K54 Trong Hộc Bàn”. Đó là lúc nhà văn Duy nhân bị cấp trên của anh hâm dọa vì tánh tình làm việc của anh rất thẳng thắn. Do đó có đụng chạm đến quyền lợi tham nhũng của cấp trên. Ông P, người cấp trên của anh, không ngần ngại cho anh thấy khẩu súng K54 lúc nào cũng nằm chờ sẵn trong hộc bàn của ông ta như một chỉ dấu đe dọa nguy hiểm đến tánh mạng của anh. Sự thô bỉ bạo ngược của xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa đến thế là cùng.
Những năm tháng trong lao tù cải tạo, mặc đầu dưới sức ép thường trực của quản giáo, nhà văn Duy Nhân vãn tiếp làm thơ nhớ về người vợ, lên án chế độ XHCN. Và mỉa mai thay anh viết bài thơ có tựa đề “Cám Ơn Ngục Tù”
Phần nhiều những truyện còn lại, tác giả Duy Nhân viết về “Hạnh Phúc Của Tuổi Già”, niềm vui “Giữ Cháu Ngoại”, hoăc sự thành đạt của các con cháu lớn lên trong nền văn hóa tự do của nước Mỹ. Tác giả Duy Nhân cuối cùng không quên đề cập đến dich bịnh Covid 19, một tai ương cũng là những thử thách khả năng chống dịch bịnh của nhân loại.
Trong loạt bài còn lại có môt bài ký, tựa đề “Người Không Nhận Tội”. Chính bài viết này đã làm nên tên tuổi nhà văn Duy Nhân. Vốn dĩ là một sinh viên tốt nghiêp khóa Chính Trị Kinh Doanh, “Người Không Nhận Tội”có phong thái một nhà trí thức trẻ, năng động, “giàu tiềm năng và nghị lực”. “Người Không Nhận Tội” có tên rất lạ và dễ nhớ: Kha Tư Giáo. Anh cũng là người bạn tù cải tạo tập trung của nhà văn Duy Nhân.
Theo chính sách cải tạo tập trung, ngoài giờ lao động khổ nhọc, các cải tạo viên còn phải hoc 10 bài chính trị. Sau mỗi bài học, là những buổi hội thảo trong tổ, trong đội. Mỗi học viên cải tạo phải viết bài thu hoạch những gì mà họ tiếp thu được sau bài giảng của giáo viên. Các học viên “phải liên hệ bản thân, xác đinh mình là người có tội với nhân dân, với cách mạng”. Chống lại những yêu cầu trên, học viên Kha Tư Giáo cho rằng anh và các bạn không ai là người có tội. “ Các chiến sĩ VNCH cầm súng chống lại bộ đội Bắc Việt và quân nằm vùng là để tự vệ mà không hề chống lại nhân dân, đồng bào ruột thịt trong Nam cũng như ngoài Bắc. Lập trường của anh Giáo không đáp ứng yêu cầu của Việt Cộng. Đó là tấn thảm kịch của anh”. Kha Tư Giáo phải viết bài kiểm điểm liên tục. Càng kiểm điểm anh càng cảm thấy mình vô tội. Theo nhà văn Duy Nhân, “bài kiểm điểm của anh Giáo lúc đầu còn dài về sau chỉ còn có 4 chữ: TÔI KHÔNG CÓ TỘI”. Anh kiên quyết giữ vững lâp trường ngay khi anh đối diện với các giáo viên cải tạo cấp cao- Lập luận cơ bản cuả anh: “Nên nhớ, các anh mới là người âm mưu cùng thực dân Pháp, chia đôi đất nước bằng hội nghi Geneva năm 1954. Chúng tôi không hề ký vào bản hiệp định đó. Đồng minh của chúng tôi không phải chỉ có Mỹ mà có cả Đai Hàn, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc đại Lợi, và tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Các anh mơi là tay sai Liên Xô và Trung Cộng. Chủ nghĩa cộng sản chủ trương bành trướng, xâm lược, nhuộm đỏ toàn thế giới chớ không riêng gì Việt Nam....”. Dĩ nhiên, những chống đối kiên cường này ngay cả với cán bộ quản giáo cấp cao, đã đưa anh Kha Tư Giáo và các cán bộ quản giáo đến những ngã rẽ vô cùng tai hại cho anh Kha Tư Giáo, anh đã phải chấp nhận một chế độ quản giáo vô cùng khắc nghiệt nếu không muốn là anh bị trừng phạt đến tận cùng lao khổ. Theo lời kể của nhà văn Duy Nhân, vấn đề khốn nạn này theo chân anh Kha Tư Giáo từ trại hoc tập này đến trại học tâp khác. Có sự kỳ ngộ ở đây, anh Kha Tư Giáo luôn ở cùng trại, cùng lán với nhà văn Duy Nhân. Do đó nhà văn Duy Nhân thấu hiểu được thân phận của anh Giáo trong lao tù cải tạo. Đôi khi trong đêm tối anh trao đổi với anh Giáo, anh chia sẻ tận cùng với anh Giáo. Với khí phách của một người trí thức, anh Giáo luôn giữ vững lập trường của một Người Không Nhận Tội.
Từ một thanh niên khỏe mạnh cao hơn một thước bảy, chỉ trong vòng mấy tháng anh chỉ còn là bộ xương với đôi mắt thật tinh anh, sau những hồi tuyêt thực đấu tranh không bao giờ nhận mình là người có tội...
Rồi cái gì sẽ đến, đã đến: ngày 20 tháng 6 năm 1977 theo nhà văn Duy Nhân ” Việt Cộng cho di chuyển một số tù nhân từ Phú Quốc về Long Giao, Long Khánh. Anh Giáo di chuyển đợt đầu, tôi thì di chuyển đơt kế tiếp. Trong lúc di chuyẻn anh Giáo bị còng tay, lúc nào cũng có bảo vệ ôm súng canh chừng. Ngay khi về tới Long Giao, tôi vội đi tìm anh Giáo. Khi găp anh thì anh đang hấp hối. Tôi nắm tay anh thì bàn tay anh lạnh ngắt. Lời nói cuối cùng anh nhắn lại với tôi là khi nào được về thì nói tất cả sự thật cho gia đình anh biết. Tôi hỏi địa chỉ ở đâu thì anh thều thào trong hơi thở rất yếu. Hình như anh thốt ra hai chữ Huyền Trân”. Cũng theo nhà văn Duy Nhân, chính anh đã nhận ra “nấm mộ của anh Kha Tư Giáo trong môt dịp tình cờ trong lúc anh đi lao động. Nấm mồ của Giáo phủ đầy cỏ dại ở một gốc sân banh hoang vắng. Trên mộ có một bản gỗ nhỏ có đề tên anh, nét chữ nhạt nhòa”
Tác giả Duy Nhân được lệnh tha cuối năm 1977, mặc dầu phải đương đầu với bao nhiêu khó khăn sau khi được xuất trại, anh vẫn thường xuyên để ý tìm địa chỉ nhà của anh Kha Tư Giáo. Anh đã đi lùng khắp Saigon, Chợ Lớn, Bà Chiểu, Phú Nhuận tìm cho ra con đường Huyền Trân để tìm đến gia đình anh Kha Tư Giáo. Trong suốt hai năm ở Saigon, anh vẫn không tìm ra được gia đình anh Giáo trước khi anh và gia đình được người em vợ bảo lãnh sang định cư tại Mỹ vào cuối năm 1997. Từ ngày sang Mỹ, anh “vẫn cố gắng dò hỏi trong số bạn bè mà tôi liên lạc được xem có ai biết gia đình họ Kha không? Một lần nữa tôi không có tin vui”... Cuối cùng nhà văn Duy Nhân đành phải chọn giải pháp, anh viết lại truyện anh Kha Tư Giáo và cho nó một tựa đề “Người Không Nhận Tội”. Vào cuối tháng 12-2001 anh gửi bài viết này đăng ở Viêt Báo Online ở Cali trong hạng mục “Viết Về Nước Mỹ”, một chapter có nhiều độc giả cũng như nhiều người tích cực tham gia rộng khắp toàn cầu, với hy vọng nhỏ nhoi là gia đình Kha Tư Giáo sẽ đọc được. Quả thật vậy, ngày 23-1-2002 chủ nhiệm Việt Báo Online tải một điện thư của gia đình anh Kha Tư Giáo từ Austin, Texas, gửi đến cho anh. Đó là điện thư của anh KTC, em trai của Kha Tư Giáo. Và chiều chủ nhật 27-1-2002, nhà văn Duy Nhân cũng nhận được điện thoại từ một phụ nữ ở Texas tên là Kha Huyền Trân, người em gái của anh Giáo.. Nhờ đó mà nhà văn Duy Nhân mới ngộ ra rằng Huyền Trân là tên của người em gái của Kha Tư Giáo chứ không phải tên của đường Công Chúa Huyền Trân.
Thế là giấc mộng của nhà văn Duy Nhân đã thành hiên thực. Nỗi ưu tư của anh đã kết thúc tốt đẹp và mỹ mãn. Truyện “Người Không Nhận Tôi” được phổ biến trong các cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản rộng khắp toàn cầu. Từ đó tên tuổi của nhà văn Duy Nhân được gắn liền với truyện “Người Không Nhận Tội”
Trong khi tôi viết bài nhận định về tác phẩm lớn của anh “Trọn Đời Yêu Thương”, nhà văn Duy Nhân chí 80, anh vẫn ở Uptown-Chicago. Anh đang hưởng già, tiếp tục bồi dưỡng những sở thích của anh trong sự nghiệp nhiếp ảnh, viết văn, làm thơ, viết báo (Viết cho bán nguyêt san Việt Báo ở Uptown Chicago) và theo dõi chăm sóc sinh hoạt cộng đồng người Việt tai vùng Uptown Chicago. Anh đang sống một cuộc sống của môt nhà văn tỵ nạn cộng sản với đầy đủ ý nghĩa nhất.../.
Đào Như
Chiều chủ nhật 12-2-2023
GHI CHÚ
(*) Những chữ viết nghiêng và trong vòng kép được trích từ tập truyện Trọn Đời Yêu Thương
- Bụi Đời - DustChild của Nguyễn Phan Quế Mai Đào Như Nhận định
- Đỉnh Núi Cao Biết Hát-The Mountains Sing Đào Như Nhận định
- Chân Dung Nhà Văn Duy Nhân Xuyên Qua Tập Truyện "Trọn Đời Yêu Thương" Đào Như Nhận định
- Thử Tìm Hiểu ChatGPT Đào Như Sưu tầm
- Noel - Một Thoáng Bâng Khuâng Đào Như Tùy bút
- Phạm Xuân Tích: Suy Tư Và Ước Mơ Đào Như Nhận định
- Triền Dốc Hoàng Hôn Đào Như Tùy bút
- Mối Tình Đầu Của Doãn Đào Như Tùy bút
- Hình Như Mùa hè Vừa Đi Qua Đào Như Truyện ngắn
- Thương Nhớ Lề Đường Sài Gòn Đào Như Bút ký
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
• Trò chuyện với dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |