|
Lê Mộng Bảo(..1923 - 8.10.2007) | Trần Tuấn Kiệt(.0.1939 - 8.10.2019) | Đinh Tiến Mậu(.0.1935 - 8.10.2020) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh. Tôi người vệ quốc quân xa gia đình yêu nàng như tình yêu em gái. Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân nhân. Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi. Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại Lấy chồng đời chiến binh mấy người đi trở lại Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê. Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương. Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối. Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh. Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói không được trông thấy nhau một lần. Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím Áo nàng màu tím hoa sim. Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa ... Một chiều rừng mưa, ba người anh từ chiến trường Đông Bắc biết tin em gái mất trước tin em lấy chồng. Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí. Chiều hành quân qua những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết. Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt. Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa: "Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu ..." |
She had three older brothers in the army. Among her brothers and sisters some could not yet speak. She was quite young, with glossy hair- I was a member of the National Defense Corps, away from his family: I loved her like some sister of my own. On our wedding day, she asked for no new gown. I wore a soldier's uniform and a pair of nailed shoes smeared with the mud of military campaigns. She smiled her gentle smile as she stood by her most uncommon groom. Back from my unit I wedded her and right away I left. In remote war zones, I thought of all those girls whose husbands served in times of war. How many could come back? If they could not, alas for all their wives still waiting in the dusk back home. He did not die, the fighting man, in the smokes and fires of war. she died, the little girl he'd left behind in the rear. When I came home, I did not see her. Mother was sitting by her grave amidst the shadows. The vase for flowers on our wedding day had become an incense urn, filled with cold ashes now. The young girl's glossy hair, just too short for a bun ... At your last moment, love, I did not hear your voice, I did not catch one glimpse of you. She loved those violet myrtle flowers once: she wore the color of those violet myrtle flower, in the old days by the midnight lamp, with her little shadow, she used to patch her husband's shirt, in the old days ... One afternoon of jungle rain three older brothers on the Northeast battlefield learned of her death before they knew she had married. In early fall winds send cold ripples through the stream. The young ones, now growing up, peer at their unknown sister's photograph, when winds, in early fall, blow through the yellowed grass at the foot of her tombstone. On afternoons of waging war, I march across these hills of myrtle shrubs, long rows of hills in endless dusk. The color of those violet myrtle flowers, the gloom on afternoons bereft of news ... As I gaze at torn shoulders on my shirt, I sing amid the color of the flowers: "The hemline of my shirt has all come loose: my wife died young, and my old mother hasn't fixed it yet."
Translated by Huỳnh Sanh Thông(The Vietnam Review 1, Autumn-Winter 1996) |
Tôi đứng bên này sông, bên kia vùng địch đóng. Làng tôi đấy sạm đen màu tiết đọng. Tre cau gầy tóc rũ ướt mưa sương. Màu trắng vôi lồm lộp mấy khuôn tường nếp đình xưa. Người hỡi, vui gì không? Tôi là anh lính chíến, rời quê hương từ dạo máu khơi dòng. Buông tay gầy vui lại thuở Bình Mông, ghì nấc súng nhớ ơi ngày đắc thắng. Chân đã mỏi trên nẻo đường vạn dặm. Áo nào phai không sót chút hào hoa. Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh. Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa. Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ. Tuổi sớm đôi mươi cưới buổi dâng cờ. Má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín. Ai bước đi mà không từng bịn rịn? Rời yêu thương nào đã mấy vui? Em lặng buồn nhìn với buổi chia phôi. Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ. Tôi còn người mẹ tóc ngã màu bông. Tuổi già non thế kỷ, lưng gầy uốn nặng kiếp long đong. Nắng mưa từ thuở tang chồng, tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon. Ôi xa rời mẹ tôi lệ nhòa mí mắt, mong con phương trời. Có từng chợt tỉnh đêm rơi nghe dồn tiếng súng nhớ thời chia ly. Mẹ ơi, con mẹ tìm đi bao giờ hết giặc con về mẹ vui. Đêm nay tôi trở về lành lạnh. Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa. Ống quần nâu đã vá mụn giang hồ, chắc tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ. Làng tôi kia bên trại thù quạnh quẽ trông im lìm như một nấm mồ ma. Có còn không em hỡi, Mẹ tôi già, những người thân yêu khóc buổi tôi xa. Tôi là anh lính chiến theo quân về giải phóng quê hương. Mái đầu xanh đầy bụi viễn phương, bước chân đất đạp xiêu đồn lũy địch. Nào anh đồng đội, người bạn pháo binh. Đã đến giờ chưa nhỉ mà tôi nghe như trại giặc tan tành. Anh rót cho khéo nhé, không lạc nhầm nhà tôi. Nhà tôi ở cuối thôn đoài, có giàn thiên lý có người tôi thương. |
I'm standing on this side - across the stream, that's enemy land. My hamlet's there, dark gray, like clotted blood. Gaunt bamboos, betel palms-hair drooping and drenched in rain. Whitewashed with lime, the stark bare walls of that old village hall. O folks, what's there to cheer about? I am a soldier waging war, who left his home when blood began to flow. I swung thin arms and cheered again our victory over the Mongols;
I clutched my gun and, oh, thought of V-Day. My feet are travel-worn after ten thousand miles. A faded uniform still gives off sparks of pride. Now I am back - a chilly night. The deep stream greets me with a sprinkle of stars. I have a wife, so young, as fair as a poem. In her early twenties I wed her, then joined the flag. Her cheeks were white and soft, redolent of ripe rice. Who could then wrench himself away?
Who could feel happy leaving those he loved? At parting, hushed and still, she sadly stared. As I strode off, tears dripped inside my soul. I have a mother, too, whose hair's turned cotton-white. Almost a century old, her scrawny back has warped beneath hard life. She's struggled since she lost her man-
the silkworm spins her thread while wilts her heart.
Alas, I went away- eyes dimmed by tears, she's gazed in the distance waiting for her son. I've sometimes wakened up on rainy nights- the roar of guns reminds me of the day I left. Mother, I chose to leave - the enemy gone, I would come home and you could smile again. Now I am back - a chilly night. The deep stream greets me with a sprinkle of stars. My trousers' legs are patched-up rags, dirt-brown; I clutch my gun and dream of him, Nguyễn Huệ *. My hamlet's there, forlorn beside the enemy camp- it seems as quiet as a grave. Are they still there, my love? My mother who's so old and those dear ones who, when I left, all wept? I am a soldier waging war, who with his troops has come back to free our land. Young heads have gathered dust from distant parts, bare feet have trampled enemy posts. Hey, fellow soldiers there, and artillery friends! Has the fateful hour struck? I feel as though we've torn the enemy camp to shreds. Just lob on target please, don't err and hit my home. My home stands at West Hamlet's farther end: a trellis with flowering vines and people whom I love.
Translated by Huỳnh Sanh Thông(The Vietnam Review 3, Autumn-Winter 1997) |
(*) Nguyễn Huệ (1752-1792), peasant leader of the Tây Sơn's rebellion who proclaimed himself King Quang Trung in 1788, won a decisive battle against the Chinese invaders by launching a surprise New Year's Day attack at Đống Đa, near Hanoi, in 1789.
Dữ dội và dịu êm; Ồn ào và lặng lẽ. Sóng không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể. Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế. Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ. Trước muôn trùng sóng bể, Em nghĩ về anh, em. Em nghĩ về biển lớn: Từ nơi nào sóng lên? "Sóng bắt đầu từ gió." Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa: Khi nào ta yêu nhau? Con sóng dưới lòng sâu, Con sóng trên mặt nước Những con sóng nhớ bờ, Ngày đêm không ngủ được. Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức. Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh: một phương. Ở ngoài kia đại dương, Trăm nghìn con sóng đó: Con nào chẳng tới bờ Dẫu muôn vời cách trở. Cuộc đời tuy dài thế, Năm tháng vẫn đi qua. Như biển kia dẫu rộng, Mây vẫn bay về xa. Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Đễ ngàn năm còn vỗ. |
They rage and rave, caress and soothe; they shout and roar, lie still or hushed. The stream can't understand its waves - they leave and find their way to sea. Oh, waves of yesterdays and waves of afteryears! They're all alike. The tides of thirst and lust for love arouse such turmoil in young breasts. Before those waves which stir the sea, I think of you, think of myself. I muse upon the boundless sea: where did those billows all arise? "It was with winds that waves began." But where did they begin, the winds? Neither do I remember now: when did it all begin, our love? Waves in the bowels of the sea, waves on the surface of the sea - all waves are homesick for their shore, so sleep eludes them day and night. My heart just longs for you, my love, and while it dreams stays wide-awake. I may set off and head straight north or face about and move down south - no matter where I go, my thoughts all turn in one direction: you. Far, far out there, upon the sea, behold them all, those waves and waves: which ones will flinch from that broad space and fail to reach their shore? Though life's a long, long haul, the months and years do pass away. However vast that sea may be, the clouds will cross it going home. Oh, how to make the heart dissolve and be a hundred little waves that borne upon the sea of love forever lap against the shore. Translated by Huỳnh Sanh Thông(The Vietnam Review 1, Autumn-Winter 1996) |
[From An Anthology of Vietnamese Poems, edited and translated by Huỳnh Sanh Thông, Yale University Press, 1996]
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn, Nhặt cánh hoa rơi cảm thấy buồn. Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc, Tôi chờ người đến với yêu đương. Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng, Dải đường xa vút bóng chiều phong, Và phương trời thẳm mờ sương, cát Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng Người ấy thuờng hay vuốt tóc tôi Thở dài trong lúc thấy tôi vui. Bảo rằng: "Hoa, dáng như tim vỡ Anh sợ tình ta cũng thế thôi!" Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì Cánh hoa tan tác của sinh ly. Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng, Là chút lòng trong chẳng biến suy!" Đâu biết một đi một lỡ làng Dưới trời đau khổ chết yêu đương? Người xa xăm quá! Tồi buồn lắm Trong một ngày vui pháo nhuộm đường. Từ đấy, thu rồi, thu lại thu, Lòng tôi còn giá đến bao giờ. Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ Người ấy, cho nên vẫn hững hờ. Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời, Ái ân lạt lẽo của chồng tôi. Mà từng thu chết, từng thu chết, Vẫn giấu trong tim bóng một người. Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết, Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa, Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ Và đỏ như màu máu thắm pha! Tôi nhớ lời người đã bảo tôi Một muà thu trước rất xa xôi, Đến nay tôi hiểu thì tôi đã Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi! Tôi sợ chiều thu nhạt nắng mờ, Chiều thu hoa đỏ rụng. Chiều thu- Gió về lạnh lẽo chân mây vắng, Người ấy sang sông đứng ngó đò. Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng, Trời ơi! Người ấy có buồn không? Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ Tựa trái tim phai, tựa máu hồng? |
One autumn, at each sunset, long ago, I'd pick up fallen leaves and feel no grief. As twilight faintly tinged my locks of hair, I'd wait for him to come and bring me love. He'd sit there coldly gazing into space, at the long road that led so far away, wrapped up in twilight while his hand would wave those tendrils with white flowers near his heart. He'd often stroke my hair and heave deep sighs when he saw me so gay, untouched by cares. He'd say, "These flowers look like broken hearts I fear our love is doomed to this same fate." But at the time I didn't understand that they meant parting, all those tattered flowers. I'd laugh and say, "These white antigonons must represent our pure, untainted hearts!" How could I know that once he'd gone away his absence would destroy our love of old? With him so far away, I felt no joy on that day when firecrackers strewed the street. Since then, as autumn comes and autumn goes, my heart has frozen in an endless frost. My husband knows that I still yearn for him and treat me with indifference and neglect. I am still walking on the fringe of life, beside my husband and his lack of love. And as each autumn's dying, dying off, the shadow of a man still haunts my heart. In my sad moments, I read novels now, find women likened to some fallen flowers, but red ones, those which look like broken hearts and wear the crimson color of real blood. When I recall the words he said to me one autumn long ago, so long ago, I grasp their meaning now, but it's too late I've erred and thrown away my love of old. I so dread autumn eves when sunshine blurs, those autumn eves when bright flowers fall on the horizon swept by chilly winds, he's waiting by the river for his boat. If he should learn that I am married now, O Heaven, would he feel betrayed and grieve? And would he secretly think of all those flowers which look like broken hearts, are red as blood? Translated by Huỳnh Sanh Thông(The Vietnam Review 1, Autumn-Winter 1996) |
- Màu Tím Hoa Sim (Hữu Loan) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
- Nhà Tôi (Yên Thao) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
- Sóng (Xuân Quỳnh) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
- Hai Sắc Hoa Tigôn (T.T.Kh) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
- Thăng Long (Nguyễn Du) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
- Vọng Phu Thạch (Nguyễn Du) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
- Hồ Hoàn Kiếm (Vô Danh) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
- Chiều Hôm Nhớ Nhà (Bà Huyện Thanh Quan) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
- Lên Đèo Hải Vân (Huỳnh Mẫn Đạt) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
- Vịnh Bức Dư Đồ Rách (Tản Đà) Huỳnh Sanh Thông Dịch Thơ
• Ngôn ngữ thơ là cái quái gì vậy? (Lê Hữu)
• Trường Ca Việt Nam (Thiếu Khanh)
• Chiều Trên Phá Tam Giang (Tô Thùy Yên)
• Ba Dòng Thơ Tiêu Biểu Phương Đông: Thơ Thiền Việt Nam, Đường Thi Trung Hoa Và Haiku Của Nhật (Thái Tú Hạp)
• Vài lời Cần Nói Về Ngày 30 Tháng 4 (Bùi Chí Vinh)
Đàm Trung Pháp & Viên Linh dịch và chú giải:
Vịnh Hai bà Trưng (Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập)
Ăn Cỗ Đầu Người (Nguyễn Biểu)
Đoạt Sáo Chương Dương Độ (Trần Quang Khải)
Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt)
......
Huỳnh Sanh Thông dịch:
Thăng Long (Nguyễn Du)
Vọng Phu Thạch (Nguyễn Du)
Hồ Hoàn Kiếm (Vô Danh)
(Bà Huyện Thanh Quan)
......
Lê Đình Nhất-Lang & Nguyễn Tiến Văn dịch:
Cùng khổ (Bùi Chát)
Hoa sữa (Bùi Chát)
Bài thơ một vần (Bùi Chát)
......
Các tác giả khác dịch:
Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi (Nguyễn Đình Toàn) (Do Dinh Tuan dịch)
Bữa Tiệc Hòa Bình (Nguyễn Thị Thanh Bình) (Nguyễn Ngọc Bích dịch)
Từ Một Cuốn Rún (Nguyễn Thị Thanh Bình) (Đinh Từ Bích Thúy dịch)
• Sau đúng 60 năm, đọc lại bài thơ trừ tịch của Đặng Đức Siêu và Đông Hồ (Trần Từ Mai )
• Mùa Thu Trong Đường Thi (Lê Đình Thông)
• Những Vần Thơ Xuân Của Vua Trần Nhân Tông (Tạ Quốc Tuấn)
• Về một bài thơ dạy học vào mùa xuân của Trần Quý Cáp (Ngô Thời Đôn)
• Cảnh Đẹp Thành Thăng Long Thời Tây Sơn Qua Thi Ca Đoàn Nguyễn Tuấn (Phạm Trọng Chánh)
Ngày Xuân Đọc "Đào Hoa Thi" của Nguyễn Trãi (Trần Uyên Thi)
Thơ Lý Bạch (Đàm Trung Pháp)
• Trường Ca Việt Nam (Thiếu Khanh)
• Chiều Trên Phá Tam Giang (Tô Thùy Yên)
• Vài lời Cần Nói Về Ngày 30 Tháng 4 (Bùi Chí Vinh)
• Điếu thi: Thủ̉y Mộ Quan (Viên Linh)
• Lời Cầu Nguyện Của Rừng (Bùi Bá)
• Chí Khí
• Xử Thế
• Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |