|
Nguyễn Văn Trung(..1937 - 4.10.2019) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Ila Kaminsky, chủ biên tuyển tập thơ thế giới: The Ecco Anthology of International Poetry, ấn hành bởi Harper Collins Publisher, 2010, trình bày về việc dịch thơ cho toàn bộ tác phẩm dày 540 trang với 309 thi sĩ từ hầu hết các dân tộc trên toàn cầu:
“Theo George Steiner, một bài thơ gốc hiện diện tĩnh lặng như một ý nghĩa cao đẹp và người dịch nỗ lực truyền tải toàn bộ ý nghĩa và thẩm mỹ này sang ngôn ngữ thứ hai. Vì hai ngôn ngữ không bao giờ ăn khớp hoàn chỉnh với nhau, một bản dịch không bao giờ hoàn toàn thành công, luôn luôn có điều gì thất thoát. Nếu dịch không thể nào phục vụ hoàn hảo như tấm gương soi, chúng ta chỉ có thể đưa ra giả thuyết rằng dịch có hiệu quả riêng thay thế cho bằng chứng hoặc dấu vết của những lời thơ (tiếng nói) cao kỳ. Đôi khi chỉ những dấu vết như vậy đã đủ, như Garcia Lorca và Anna Ankhmatova, ngay cả những bản dịch sang Anh ngữ đã ảnh hưởng đến những nhà thơ Hoa Kỳ trong thế kỷ 20. Tương tựa như chim phượng hoàng, những bài thơ của các bậc tôn sư được tái sinh từ đống tro tàn của bản dịch.” (trang x1, Introduction.)
Ông nhận định, một bản dịch thành công thể hiện văn bản gốc trải qua một quá trình biến đổi với sự tái sinh trong một mô hình sống động mới. Thỏa thuận với khái niệm này, nhà thơ Pauk Celan viết:
“Ngôn ngữ mà tôi sáng tác thơ không liên quan gì đến lời thơ ở đây (trong tuyển tập) hoặc ở những nơi khác.” (x1) Nhà thơ Mahmoud Darwish đề nghị, một bài thơ dịch nên phát triển vào khả năng bao la của ngôn ngữ dịch.
Dịch Thơ Là Làm Thơ.
Dịch truyện hầu hết dễ hơn dịch triết học. Dịch triết học hầu hết dễ hơn dịch thơ. Nhà văn Mark Twain nhận xét: “Sự khác biệt giữa chữ nghĩa chính xác và chữ nghĩa gần chính xác là một vấn đề thật sự lớn như sự khác biệt giữa tia chớp và tia sáng lập lòe của đom đóm”. Quan điểm này đưa đến dịch thơ như một công việc làm không bao giờ thành tựu.
Từ thế kỷ 17, John Dryden trong Ovid’s Epistles, đã đề nghị một lối dịch thoát: Imitation, (mô phỏng, bắt chước). Dùng văn bản gốc, người dịch được phép xuất phát từ ý nghĩa và ngôn ngữ ở những nơi cần thiết để sáng tác đến hiệu quả sau cùng tốt đẹp nhất trong ngôn ngữ mới. Quan điểm này khá rõ ràng, cho phép mô phỏng chỉ những khi “cần thiết”. Tức là những lúc trở ngại với ý nghĩa tương đương của văn tự, lúc gặp khó khăn giữa sự khác biệt văn hóa, và những lúc cần đề cao thẩm mỹ của ngôn ngữ dịch.
Dịch thơ là tái sáng tạo. Khái niệm này manh nha từ giữa thế kỷ 20. Được nhiều nhà phê bình, dịch giả và nhà thơ ủng hộ vào cuối thế kỷ. Lý do rất rõ ràng, việc dịch thơ không thể nào thành công như dịch văn xuôi. Ngoài trừ trở ngại về ngôn ngữ tương đương như Mark Twain đã nói, trở ngại về chuyển đổi khác biệt giữa hai văn hóa còn lớn hơn.
Trở ngại lớn nhất, hầu như không thể giải quyết, đó là chiều sâu của văn bản. Thơ cưu mang hầu hết là ẩn văn. Dịch chữ nghĩa đại diện, không khó. Dịch ý nghĩa của điều được đại diện trong khuôn khổ và nghệ thuật thơ là điều rất khó. Dịch ý nghĩa được ngụ ý qua ngôn ngữ đại diện và qua những gì được đại diện là việc gần như không thể thành công. Ngoài ra, thơ chứa đựng một phần vô thức của tác giả. Việc suy đoán của dịch giả không lấy gì bảo đảm đã gần gũi được những gì mà chính tác giả cũng không biết. Do đó, nhà thơ Robert Frost cho rằng thơ hay nằm ở chỗ không thể dịch mà dịch giả đã làm cho nó thất lạc.
Nhưng dịch thơ thế giới là việc cần thiết để phong phú hóa văn học thơ dân tộc. Cho đến nay, vẫn là cách duy nhất để tìm hiểu và học hỏi “trực giác sáng tạo” và “ý tưởng cảm tính” của các nhà thơ ngoại quốc. Cùng một lúc chia sẻ được kinh nghiệm đa văn hóa. Sự chia sẻ ý tưởng, sở học, kinh nghiệm, và văn học với những nhà thơ ngoại quốc là việc vô cùng quan trọng cho phẩm chất và nghệ thuật thi ca của bản xứ.
Dịch thơ không thể thành công nhưng cần phải dịch. Quan điểm mâu thuẫn một cách hữu lý này dẫn đến khái niệm dịch thơ là sáng tạo bài thơ khác. Sáng tạo nghĩa là bài thơ dịch phải hội đủ điều kiện như bài thơ sáng tác có giá trị thi ca, nhưng phải dựa trên những yếu tố chính của bài thơ gốc, như ý nghĩa, tứ thơ, phong cách ẩn văn,...
Nói đúng hơn, dịch thơ là tái tạo bài thơ gốc. Tái sáng tạo cho người dịch những sáng tác đa dạng từ cùng một văn bản chính. Tùy mỗi người dịch chọn lựa học thuật nào để tái tạo. Lối dịch thông thường nhất là dịch theo ngữ nghĩa và văn cảnh, tuy có khả năng sát nghĩa tương đương nhưng không bày tỏ được ngụ ý hoặc cách thức gợi ý. Do sự khác biệt về ngữ nghĩa, cú pháp, văn học truyền thống, văn hóa địa phương, và phong cách diễn đạt, tạo nên nhiều khó khăn liên quan đến bản sắc thơ. Đó là lý do tại sao đọc thơ dịch theo ngữ nghĩa và văn cảnh ít cảm nhận được cái hay nét đẹp của bài thơ ngoại, dù đó là bài thơ đang được ca tụng.
Tôi đề nghị chọn lối dịch theo văn hóa ngôn ngữ dịch, tức là văn hóa Việt. Cách trình bày và cấu trúc câu thơ Việt, cách diễn tả tứ thơ, cách móc nối hoặc liên tưởng từ ẩn ý đến ý nghĩa gợi ý... khác với thơ ngoại quốc. Vì vậy, dịch thơ luôn luôn có sự đấu tranh giữa dịch theo văn hóa văn ngữ của bản gốc và dịch theo văn hóa văn ngữ của ngôn ngữ dịch.
Người dịch theo tiêu chuẩn ngữ nghĩa và văn cảnh sẽ thấy bản dịch theo văn hóa có nhiều chỗ không đúng như ngôn ngữ tác giả. Ngược lại người dịch theo văn hóa dịch sẽ thấy bản dịch theo văn ngôn bản gốc là không thông suốt. Nhiều bài đọc lên cảm thấy khó cảm hoặc dở, rồi đâm ra nghi ngờ giá trị của bài thơ gốc hoặc khả năng của người dịch, trong khi chính xác hơn là nên nghi ngờ phương pháp dịch.
Phương pháp dịch khác nhau đưa đến kết quả khác nhau. Chọn phương pháp dịch là quan điểm hệ trọng khi dịch một bài thơ. Có lẽ, mỗi bài thơ, mỗi thể loại thơ đòi hỏi mỗi cách dịch phù hợp. Ví dụ: Một bài thơ thuộc dạng biểu hiện, cần lối dịch nghiêng về cảm tính và thẩm mỹ. Trong khi một bài thơ trong dạng tượng trưng hoặc trừu tượng, cần lối dịch nghiêng về văn hóa. Dịch sát văn cảnh và ngữ nghĩa nếu đó là bài thơ hiện thực. Dịch thoát nếu đó là bài thơ siêu thực hoặc hóa ảo. Không thể nấu cơm và nấu cháo giống nhau. Dĩ nhiên, nấu xôi phải khác. Sử dụng một lề lối dịch phù hợp với bài thơ gốc, dịch giả không chỉ là người “chuyển ngữ”, họ là người biến hóa ngôn ngữ.
Sẽ không có lối dịch thơ nào hoàn toàn đúng vì ngay từ đầu ai cũng biết dịch thơ là sai lầm. Chỉ có lối dịch tương đối với nhiệm vụ chuyển tải văn chương, văn hóa, dùng vào việc học hỏi nghiên cứu, là việc cần phải làm với ý thức rõ rệt về sự giới hạn của nó. Nghĩa là, làm sao cho người đọc cảm nhận được cái hay, nét đẹp của bài thơ ngoại. Dịch thơ là tái tạo bài thơ gốc theo chiều hướng đó.
Độc giả của bài thơ gốc thụ hưởng nét đẹp điều hay khác nhau, không hoàn toàn theo ý tác giả. Độc giả bài thơ dịch cũng thụ hưởng nét đẹp điều hay khác nhau, hoàn toàn không theo ý tác giả lẫn dịch giả. Vì vậy việc tranh luận dịch thơ đúng, dịch thơ sai, cần có một hệ thống tiêu chuẩn, không dựa vào những sở thích và sở học riêng tư. Câu hỏi cho mỗi người dịch thơ có kinh nghiệm dịch và khả năng “trực giác sinh ngữ” là: Bản dịch có trung thực và tận tụy hay không?
Nếu chúng ta cứ quan tâm việc dịch thơ không đúng với ý của tác giả, sẽ làm hỏng giá trị của bài thơ, điều này là mối bận tâm đúng đắn, tuy nhiên, câu hỏi nêu ra tiếp theo là ai có khả năng để hiểu đúng ý của tác giả? Tất cả những phân tích phê bình thơ và dịch thơ có giá trị đều mang tính phỏng đoán. Nếu chúng ta còn quan tâm việc dịch thơ, người dịch chỉ có thể tái tạo bài thơ gốc bằng tận sở học, với lòng tự trọng để tìm đến phẩm chất giải mã và trình bày thẩm mỹ ở mức độ mà họ tận sức thực hành. (*)
Tự Phỏng Vấn.
- Anh có thể giải thích chi tiết hơn về lối dịch thơ thông dụng của người Việt hiện nay không?
- Theo tôi thì dịch thơ và dịch văn xuôi văn chương như dịch truyện, dịch tiểu luận có chỗ khác nhau. Lối dịch thơ hiện nay, hầu hết, được sử dụng như lối dịch văn xuôi. Dựa trên một số tiêu chuẩn:
1- Ngữ nghĩa tương đương, tiếp cận chính xác 100%.
2- Văn cảnh (bao gồm hình ảnh, màu sắc, âm thanh) tương tựa, tiếp cận sự hoàn hảo.
3- Cú pháp theo sát văn bản gốc.
4- Nếu có mâu thuẫn, sẽ chọn dịch theo sự chính xác của ngôn ngữ gốc. Hoặc dịch theo “cách riêng” gọi là dịch thoát.
5- Hầu hết các bản dịch thơ được thực hiện trong tinh thần dịch thành văn bản văn chương có giá trị.
Trên đây chỉ là ít điều thường xuyên nhận thấy ở những bản dịch thơ đang hiện hành trên mạng, báo chí và sách in trong cộng đồng người Việt, trong và ngoài nước. Trong thực tế, đây là phương pháp dịch truyền thống cho nhiều hệ thống ngôn ngữ trên thế giới. Ở Việt Nam, có lẽ nghệ thuật dịch hiện đại của chúng ta bắt nguồn từ lối dịch của người Pháp, khi nền văn học của họ đô hộ, bảo trợ và thay đổi ý thức sáng tác trong văn chương Việt.
Tuy nhiên, sau một thời gian dài trải nghiệm, ở Tây Phương xuất hiện một số học thuyết dịch theo tinh thần mới, có mục tiêu giúp người đọc tiếp cận nét đẹp điều hay của văn bản văn chương gốc, nhất là thơ, thay vì chỉ tập trung vào ý nghĩa của văn bản và những thâm ý của tác giả. Một số học thuyết khác, cho phép dịch giả nhiều quyền hạn giải quyết, giải thích văn bản hơn lối dịch truyền thống.
Mỗi học thuyết đều có những dịch giả hay, đáng tin cậy, đều có những tác phẩm dịch giá trị. Nhưng thường khi các học thuyết lại đối chọi hoặc không thỏa thuận với nhau về những yếu tố sử dụng để dịch. Như vậy, ai đúng ai sai? Thuyết nào hay hơn, thuyết nào dở?
Mỗi học thuyết đều có ưu điểm và khuyết điểm như thường lệ. Mỗi học thuyết đều dạy cho người dịch cách giả quyết một số vấn đề khi gặp khó khăn trong lúc dịch. Không có phương pháp dịch nào hoàn chỉnh, nhất là dịch thơ. Điều mà tôi hiểu được, có thể làm cho bản dịch có giá trị, chính là bản thân dịch giả, chủ yếu ở tài năng dịch và tính trung thực. Điểu mà tôi tin được là người dịch có thể sử dụng mọi tinh hoa của các môn phái dịch. Trong mỗi trường hợp khó khăn, đòi hỏi mỗi cách giả quyết phù hợp.
Cơ sở của đời sống là trao đổi. Có trao đổi là có chọn lựa. Dịch cũng vậy, chọn cách này phải bỏ cách kia. Trao đổi giữa hay hơn và đúng hơn. Mặc cả giữa ý nghĩa chính xác và sự dễ hiểu. Cân nhắc giữa hư cấu của tác giả và tưởng tượng của dịch giả. Tôi nghĩ, dịch là trao đổi giữa hai loại ngôn ngữ với lợi ích thuộc về người đọc.
- Anh có thể trình bày thêm về những khuyết điểm của lối dịch truyền thống?
- Theo tôi, không có vấn đề khuyết điểm chung. Khuyết điểm của mỗi học phái dịch thơ, thể hiện trong mỗi bài thơ dịch, mang tính đặc thù. Không có quy tắc chung để dịch đúng, dịch đẹp, mà chỉ có quy tắc dịch áp dụng phù hợp hoặc hữu lý cho mỗi trường hợp khó giải quyết. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết được mặt yếu của mỗi học thuyết dịch, sẽ giúp cho sự chọn lựa và trao đổi dễ dàng, thường khi giúp cho bản thân giảm bớt căng thẳng vì tội đã làm hư hao văn bản gốc.
Những mặt yếu của lối dịch truyền thống tập trung vào những phạm vi mà dịch giả nỗ lực “chính xác hóa” bản dịch theo văn bản gốc và theo ý tác giả.
1- Ngữ nghĩa tương đương: Hầu hết mọi trường hợp gặp khó khăn về ngữ nghĩa khi dịch thơ là vì “nghĩa tương đương” chỉ có thể tương đối. Chữ đồng nghĩa trong từ điển, chưa hẳn là nghĩa của chữ trong mạch văn. Thường xuyên, thi sĩ dùng chữ có nghĩa khác hơn là nghĩa thông dụng. Cùng một chữ có khi dịch ra khác nhau. Ví dụ Fresh flower: hoa tươi, hoa tinh khiết, hoa mới, hoa chưa đủ kinh nghiệm đường đời, hoa thơ ngây, hoa trinh trắng.... She’s a fresh flower. Dịch ra sao phải tùy mạch văn và đôi khi phải đoán chứng, không bảo đảm lắm. Chưa kể những từ ngữ trừu tượng, nếu mang theo ngụ ý của thi sĩ, dịch trở thành một thách thức, mà kết quả thường thất bại nhiều hơn thành công.
2- Văn cảnh tương tựa: - Văn cảnh dịch có thể giống văn cảnh gốc mà không thể hiện, nhất là gợi ý, điều mà thi sĩ điềm chỉ. Nói một cách khác, không mang được người đọc đi sâu qua bề ngoài của văn cảnh. Văn cảnh dịch có thể tương tựa với văn cảnh gốc nhưng không tạo được sự gần gũi quen thuộc đối với độc giả dịch như văn cảnh gốc đối với độc giả (gốc). Ví dụ cảnh rừng núi Việt khác với rừng núi ở Phi Châu. Cảnh sinh hoạt giữa mẹ chồng nàng dâu ở Mỹ khác ở Việt Nam. Chúng ta có thể hiểu văn cảnh, thi cảnh nhưng không dễ có cảm xúc. Và chính cảm xúc là yếu tố làm cho văn cảnh đẹp hơn, thi vị hơn, cảm nhận sâu sắc hơn.
Dịch văn cảnh thường xuyên gặp trở ngại vì sự khác biệt có gốc rễ tiềm tàng trong hai nền văn hóa dị biệt. Ví dụ như: “Thiếu nữ này trông đẹp như Marilyn Monroe.” Phân tích theo phép lập luận của Ludwig Wittgenstein, gồm hai điểm: 1- “trông đẹp như" bao nhiêu phần trăm? một nửa? hay 90%? Hình ảnh tác giả phác họa và hình ảnh dịch giả diễn đạt cho độc giả “cách xa nhau như thế nào?” Dĩ nhiên, thơ không quan tâm đến con số, nhưng lập luận này cho thấy sự khác biệt giữa nhiều người nhận khi nghe khen “đẹp quá”.
Marilyn Monroe ở thời điểm nào? lúc trẻ, lúc già, trong phim hay trên báo...? Không cần phải khắt khe với chi tiết, quan điểm này cho thấy sự khác biệt tự nhiên, tự động giữa tác giả, dịch giả, qua ngôn ngữ. Rồi sau cùng, mỗi độc giả sẽ thấy cô thiếu nữ đẹp theo kinh nghiệm riêng và hiểu biết của họ về Marilyn Monroe.
3- Cú pháp diễn đạt: Mỗi ngôn ngữ, mỗi dân tộc, mỗi văn hóa, mỗi nhà thơ, có cách diễn đạt khác nhau. Theo sát cách diễn đạt của tác giả và văn bản gốc, thường làm câu thơ “ngô nghê” hoặc “lạ lẫm”, đôi khi vô nghĩa và vô vị. Ngược lại, nếu tự tung tự tác, phóng dịch, phỏng dịch, cũng khó được chấp nhận. Ranh giới giữa hai đối cực này vừa mờ nhạt vừa di động. Mỗi dịch giả sẽ chấp nhận ranh giới khác nhau và mỗi bài thơ dịch được chọn một ranh giới theo sở thích và lòng tự trọng. Để có một mấu chốt nào đó khi phải dịch “biến hóa”, nên trở về với đề nghị của Dryden: chỉ ở những nơi cần thiết.
Chủ yếu sự phức tạp này nằm nơi cảm xúc. Nhà thơ dùng cảm xúc thúc đẩy hình ảnh, ý tưởng qua ngôn ngữ. Câu thơ hay thành hình khác lạ bởi cảm xúc thao tác tưởng tượng. Ngược lại, dịch giả bắt đầu câu thơ dịch bằng lý trí, chuyển dịch ý tưởng qua ngôn ngữ. Khó làm sao tạo ra cảm xúc say mê như tác giả. Đôi khi cố gắng quá cảm xúc trở thành giả tạo. Đây là lý do vì sao bài thơ dịch khó có thể tương tương với bài thơ gốc.
Ngoài vấn nạn của cảm xúc, vấn đề văn hóa là vấn đề then chốt. Văn hóa của một dân tộc, một ngôn ngữ, một tinh thần, được tích lũy, kế thừa, trong thời gian dài. Khi va chạm với văn hóa khác qua hình ảnh, tứ thơ, cú pháp, ... dĩ nhiên có sự khác lạ, tuy có thể chấp nhận, nhưng không dễ hài lòng. Đã không vừa ý, kết quả thường tiêu cực.
Sở học, tài năng của dịch giả phải đi kèm với lòng trung thực. Ngay cả người đọc cũng cần lòng trung thực, nhất là những người dịch khác.
Bàn về dịch thơ thường đưa đến sự bế tắt hoặc sự chấp nhận tương đối. Nhưng nếu nhìn một cách lạc quan hơn, dịch thơ mang đến cho người đọc sự phá vỡ biên giới thưởng ngoạn của thói quen và thu thập những ý nghĩa mới lạ, những tầm nhìn cao kỳ, có khi quái dị nhưng một cách nào đó lại hợp lý.
Bàn về người Việt dịch thơ, có lẽ tiền nhân của chúng ta đã để lại một phương pháp dịch tiên phuông hơn cả những phương pháp Tây Phương. Tuy không hoàn hảo (vì chẳng bao giờ có hoàn hảo) nhưng trở thành văn bản giá trị văn chương trong lịch sử văn học dịch Việt Nam. Đó là phép dịch của Đoàn thị Điểm (1705-1746) dịch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn (1710-1745).
Xét từ thể thơ, ngữ nghĩa, cú pháp, nghệ thuật diễn đạt, ... Đoàn thị Điểm chứng minh cho người đời sau giá trị của sáng tạo trong dịch thuật.
“Hồng nhan đa truân” dịch “Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.” Làm sao có thể dịch hay hơn nữa? Tìm hiểu cặn kẽ phép dịch của Đoàn thị Điểm sẽ cho người dịch một con đường dịch thơ “có thể tự hào”.
Những khi dịch thơ ngoại mà gặp những khó khăn, bí đường giải quyết, có lẽ nên suy tư thêm về trường hợp:
Nguyên bản của Đặng Trần Côn:
Tương cố bất tương kiến
Thanh thanh mạch thượng tang
Mạch thượng tang, mạch thượng tang
Thiếp ý, quân tâm thùy đoạn trường.
Phan Huy Ích dịch:
Trông nhau mà chẳng thấy nhau,
Xanh xanh những thấy bóng dâu bên đường.
Dâu mấy hàng, có hay chăng nhẻ,
Lòng đấy đây, ai kẻ vắn dài?
Đoàn thị Điểm dịch:
Cùng ngoảnh lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng, ý thiếp ai sầu hơn ai?
Cả hai bản dịch đều không hoàn hảo, nhưng bản của Đoàn thị Điểm nghệ thuật cao hơn. Cả hai đều dịch: Thanh thanh mạch thượng tang / Mạch thượng tang mạch thượng tang : Ngàn dâu xanh xanh / ngàn dâu ngàn dâu, thành những câu thoát ý, nhưng câu của bà Đoàn sâu sắc và mỹ thuật hơn. Bản dịch Chinh Phụ Ngâm của ông Phan được công nhận là bản dịch sát bản gốc, tuy vậy so với bản dịch của bà Đoàn, quả thật không bằng. Dịch đúng chưa hẳn là giúp cho người đọc cảm nhận bài thơ. Cảm nhận thơ bao gồm ba yếu tố chính: Ý nghĩa, cảm xúc và thẩm mỹ.
Trở lại nhận định đầu tiên, lối dịch theo phép Đoàn gia hoặc Phan gia đều cho thấy rõ, dịch văn xuôi và dịch thơ rất khác nhau. Dịch văn xuôi cần chính xác. Dịch thơ cần nghệ thuật: đẹp và hay, để đánh động trực giác cảm nhận ý nghĩa. Không nên áp dụng lối dịch văn xuôi vào dịch thơ.
Dịch thơ theo lối bà Đoàn là nghệ thuật dịch ngoạn mục và thú vị.
Ngu Yên.
Houston. 2017.
- Dịch Thơ: Tái Sáng Tạo. Ngoạn Mục và Thú Vị. Ngu Yên Nhận định
- Xác Và Hồn Lá Đổ Muôn Chiều Ngu Yên Tạp luận
- Nhạc Cảm và Nhạc Nghĩ Ngu Yên Tạp luận
- Dịch Thuật và Giải Cấu Trúc Ngu Yên Nhận định
- Nữ họa sĩ Ann Phong - Dấu Người Trên Đất Ngu Yên Nhận định
- Cọp Sách và Thư Mục Ngu Yên Hồi ức
- Tưởng Tượng và Hư Cấu Trong Thơ Ngu Yên Tiểu luận
- Bài Thơ Tài Tình Ngu Yên Tiểu luận
- Câu Hỏi Về Bài Thơ Ngu Yên Tiểu luận
- Màu Thời Gian Với Lê Uyên Và Phương Ngu Yên Tạp luận
• Dịch Thơ: Tái Sáng Tạo. Ngoạn Mục và Thú Vị. (Ngu Yên)
• Quần Đảo Tráo Tên - Chương 1 & Chương 2 (Đỗ Quyên)
• Quần Đảo Tráo Tên - Tự Bạch & Chương Mở (Đỗ Quyên)
• Ngôn ngữ thơ là cái quái gì vậy? (Lê Hữu)
• Trường Ca Việt Nam (Thiếu Khanh)
Đàm Trung Pháp & Viên Linh dịch và chú giải:
Vịnh Hai bà Trưng (Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập)
Ăn Cỗ Đầu Người (Nguyễn Biểu)
Đoạt Sáo Chương Dương Độ (Trần Quang Khải)
Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt)
......
Huỳnh Sanh Thông dịch:
Thăng Long (Nguyễn Du)
Vọng Phu Thạch (Nguyễn Du)
Hồ Hoàn Kiếm (Vô Danh)
(Bà Huyện Thanh Quan)
......
Lê Đình Nhất-Lang & Nguyễn Tiến Văn dịch:
Cùng khổ (Bùi Chát)
Hoa sữa (Bùi Chát)
Bài thơ một vần (Bùi Chát)
......
Các tác giả khác dịch:
Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi (Nguyễn Đình Toàn) (Do Dinh Tuan dịch)
Bữa Tiệc Hòa Bình (Nguyễn Thị Thanh Bình) (Nguyễn Ngọc Bích dịch)
Từ Một Cuốn Rún (Nguyễn Thị Thanh Bình) (Đinh Từ Bích Thúy dịch)
• Sau đúng 60 năm, đọc lại bài thơ trừ tịch của Đặng Đức Siêu và Đông Hồ (Trần Từ Mai )
• Mùa Thu Trong Đường Thi (Lê Đình Thông)
• Những Vần Thơ Xuân Của Vua Trần Nhân Tông (Tạ Quốc Tuấn)
• Về một bài thơ dạy học vào mùa xuân của Trần Quý Cáp (Ngô Thời Đôn)
• Cảnh Đẹp Thành Thăng Long Thời Tây Sơn Qua Thi Ca Đoàn Nguyễn Tuấn (Phạm Trọng Chánh)
Ngày Xuân Đọc "Đào Hoa Thi" của Nguyễn Trãi (Trần Uyên Thi)
Thơ Lý Bạch (Đàm Trung Pháp)
• Quần Đảo Tráo Tên - Chương 1 & Chương 2 (Đỗ Quyên)
• Quần Đảo Tráo Tên - Tự Bạch & Chương Mở (Đỗ Quyên)
• Trường Ca Việt Nam (Thiếu Khanh)
• Chiều Trên Phá Tam Giang (Tô Thùy Yên)
• Vài lời Cần Nói Về Ngày 30 Tháng 4 (Bùi Chí Vinh)
• Chí Khí
• Xử Thế
• Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |