|
Lương Kim Định(15.6.1914-25.3.1997) | Đông Hồ(10.3.1906-25.3.1969) |
Người đàn bà ấy lại tới. Lần này một mình. Váy màu da báo đốm, hở vai. Guốc cao gót. Mũ rộng vành che khuất khuôn mặt và chiếc kính râm.
Ghế mộc lỏng chỏng ngoài hàng hiên là đối tượng đầu tiên để bà ta vén váy ngồi xuống, sau đó vất túi xách, tháo mũ, tháo kính bỏ bè ra bàn.
Giáo Mẫn không ngoái nhìn, tiếp tục công việc. Giả lơ, kéo sụp đôi mắt chong vào hai bàn tay nhào nặn. Những lọn cỏ khô cuốn lấp trong lớp bùn sỏi ướt. Vài cọng lòi ra như rằng chúng phản ứng lại sự vò đạp vô cớ. Mãi lúc sau ông mới đứng lên bỏ cả hai chân vào đống đất áo chỉ bằng chiếc thau giặt, dẫm đạp liên hồi như thể trút cả cơn bực tức vào đó.
- Đủ rồi, anh Tư.
- Cô đợi xong chút đã. Trám lại mấy chỗ bể sứt cho xong, để lâu đất áo khô, khó trét.
Bình thường chỉ cần ba phút là xong chỗ lủng bể nhỏ bằng chiếc trã, nhưng lần này giáo Mẫn nhấn nhá, đắp lên cào xuống, xoa xoa, khư ra rồi đắp lại, dùng cả bàn tay và cả hơi thở miết lên chỗ mới trám đến năm lần bảy lượt như đang phình ngực, địu hơi làm dịu cơn nghẹn thở.
Miễu này lâu lắm rồi, đến hơn thế kỷ, thờ các nghĩa binh Cần vương bị giặc chém đầu. Dân làng truyền miệng vậy, gọi miễu thờ Đầu. Rồi họ thêu dệt lắm chuyện hoang đường: Những đêm trăng sơ huyền hay khuyết nguyệt binh đao khua rổn rảng, tiếng ngựa hý vang động sau ngọn đồi thấp khiến cây cỏ rung lật bật, dòng sông đằng xa cũng nổi ba đào như thể bầy thuồng luồng rượt đuổi nhau.
Thời cha ông của họ, xuân thu nhị kỳ đều cúng tế trang trọng. Nhưng khi chiến tranh đổ xuống, dân làng lo giữ mạng sống hơn là hương khói các nghĩa sĩ. Lòng tưởng nhớ cộng với sự thành tâm dẫu có to lớn cỡ nào cũng bị bỏ rơi. Tất cả kéo nhau xuống thị xã lánh nạn sau một trận bom xăng khốc liệt. Họ đi biệt, chẳng ai nhớ đến ngôi miễu thiêng nữa! Cỏ dại, rồi lùm bụi cao thấp, lớn nhỏ theo thời gian rờ chạm vào chân vách, đánh đu lên mái, cỡi lên hạt châu, lên bốn con dao hình thanh kiếm dựng ngược trên bốn mái úp, rồi che khuất ngôi miễu, đè ép nó co rúm lại như một nỗi sợ hãi thường xuyên xuất hiện trên những bộ mặt hơ hãi của dân làng…
Hình như quá mức chịu đựng, người đàn bà đứng lên, nắm vai áo giáo Mẫn:
- Anh có trám bít lỗ này thì lỗ kia cũng rụng ra. Anh quá hiểu chuyện đó mà. Anh nghĩ mà coi, miễu già đến gần hai trăm năm! Bộ dạng nó như thế nào anh biết rồi còn gì. Mái thì ễnh cong, lủng lỉu. Tường tróc thủng từng mảng lớn nhỏ như chiếc rổ sảo. Rui, kèo, xiên, trính… dính hờ với nhau nhờ vào lớp khí trời xin xỉn nước vo gạo! Anh còn tiếc cái giống gì? Mà cũng đâu phải của riêng cha ông anh xây dựng nên?
- Xin cô đừng nhiếc móc, tội vong linh kẻ khuất mặt.
- Thôi đi. Tôi chỉ nói thực, sao gọi nhiếc móc?
- Có trách, cô hãy trách tôi.
- Thì tôi trách anh đó?
- Sao nào? - Giáo Mẫn nói và đứng lên, để nguyên hai bàn tay bê bết đất lên mặt bàn sần nhám, ngồi xuống chiếc đẩu long chân nghe thành tiếng.
- Anh hãy dẹp cái lịch sử mốc cời kia sang bên được không? Anh bám vào quá khứ để được cái gì, bất quá người ta cũng tặng cho anh hai chữ ông từ! Hơn chút là những đồng bạc lẻ cúng dường lỏng chỏng trên chiếc dĩa sành sứt mẻ!
- Hình như cô đang xúc phạm tôi đó?
- Tự anh đánh mất anh, rồi tự xúc phạm chính anh. Đủ chưa?
- Đến lần này, chỉ chừng ấy thôi sao?
- Tôi nhắc lại với anh rằng, miễu sẽ bị triệt xuống và đầu tháng tới sẽ làm lễ động thổ để xây ngôi chùa mới trên nền miễu cũ. Mọi thủ tục đâu vào đấy.
- Tôi không ý kiến - giáo Mẫn nói và định nhổm đít lên.
Người đàn bà đưa mắt xói vào tận mặt giáo Mẫn như vết lia của thanh kiếm sắc lẹm:
- Không ý kiến là sao? Anh đến xứ chó gà đá muối này và anh đã tìm thấy nó. Anh sử dụng như của riêng mà đến cả mấy đứa làm tiền dẫn khách đến các lùm bụi sau miếu cũng phải xin phép anh, thì tôi thưa với anh một tiếng có mất mát gì?
- Tôi xin cô!
- Cả thị trấn heo hút này ai không biết chuyện anh che chở bọn họ và cũng không ai biết rõ ràng động cơ nào… mà thôi, không nói nữa, kẻo lại xúc phạm giáo sư.
Giáo Mẫn chết trân. Ông không thể nào mở miệng để phân giải thiệt hơn. Vụ việc xảy ra giống như một hòn đá ai đó nổi giận, ném sượt trước mặt, như một cơn dông lốc ào ào kéo tới giật phăng, vặn đổ mọi thứ trên đường quét. Cái còn lại là một vòng nước kín mặt, là những đống bèo nhèo trên mặt đất.
Miễu ở chốn đèo heo hút gió, là miễu hoang, hiếm khi có bóng người lai vãng. Đêm, giáo Mẫn tụng vài thời kinh cầu an, thắp nén nhang rồi tắt đèn. Ông co ro bên tách trà nguội, bập phà điếu thuốc rê khét lẹt, chẳng mấy khi nhìn ngó ra ngoài. Mà, quanh đây có gì để dòm ngó, canh giữ ngoài mấy con gà nuôi ẩn mình đâu đó trong chòm lá rậm rịt trên cành cao? Vậy mà cuối cùng cũng có tiếng hô hoán, tiếng bước chân chạy rầm rập, tiếng thở dập khúc hổn hển nghe rất gần “tụi cháu bị cảnh sát… chú làm ơn”. Quán tính thiện lương trong người giáo Mẫn nổi lên. Ông chạy trước, kéo tất cả xuống cửa hầm nông choẹt vốn của dân làng đào để tránh đạn pháo thời chiến tranh sau miễu, nay chỉ còn vết lõm sâu, phủ kín dây leo.
Lúc quay vào, năm sáu viên cảnh sát đứng lố nhố trong sân, hỏi ông có thấy đám người chạy tới? Ông nói có nghe tiếng chân, hình như họ băng qua ngọn đồi ra phía bờ sông. Tiếng cảm ơn. Tiếng bước chân lạo xạo rồi mất hút trong bóng đêm.
Giờ này, đối diện với sự giận dữ sần sượng của người đàn bà ngồi trước mặt, giáo Mẫn tự hỏi, mình có tiếp tay bao che cho mấy cô gái điếm kia không, thì chỉ có trời biết, đất biết và trái tim ông biết. Còn lại thì thân phận ông giờ này bị người đàn bà đem kéo căng trước tấm gương chiếu yêu tìm cho ra từng cọng lông, vết xước, cùng với sự nhìn thấy những hình thù tròn méo đậm nhạt ẩn bên trong ông khá dị hợm.
Những khi rổi rảnh, hẳn có ai đó chợt nhớ tới ông giáo rồi tự hỏi: Ừ, sao ông lại tới nơi này, ngụ lại trong ngôi miếu đổ nát, hương khói không sót ngày sóc ngày vọng? Những câu hỏi đặt ra; những câu trả lời tiếp liền, lớp này chồng lớp khác bày ra bừa bộn, không khác những lớp đá củ đậu củ khoai phơi trần quanh khu miễu thờ Đầu!
Vậy đó, cuối cùng giáo Mẫn mang tiếng là tên ma cô dắt gái, nhưng cũng may chưa ai ở xứ này phát hiện ra Mẫn từng là ông giáo, từng làm những trái tim non dại đập loạn nhịp với những bài giảng trích dẫn từ những câu thơ tình của Xuân Diệu, Nguyễn Bính… trừ người đàn bà đang ngồi trước mặt ông.
Người đàn bà đó chính là cô, người đang ngồi đối diện giáo Mẫn. Xưa, cô đẹp lụa là, sang chảnh, là con ông quan đầu tỉnh, một lãnh chúa đầy ắp quyền lực, từng yêu điên cuồng những câu thơ ngôn tình rồi điên cuồng “yêu” giáo Mẫn, đến nỗi quan phụ mẫu ra đòn độc hạ gục anh giáo tép riu, hắt đời anh vào thùng rác y như búng mẫu tàn thuốc rồi ra chân chà xát. Giáo Mẫn chẳng hề buồn giận, chỉ bẻ đôi viên phấn, moi đất lấp xuống sau sân trường coi như biểu tượng tự chôn mình.
Vậy là xong.