|
Nguyễn Viết Khánh(..1921-12.8.2012) |
Phải khó khăn lắm ông già mới quyết định chuyển đến chỗ ở mới. Đó là căn phòng nhỏ trên tầng áp mái, rộng tầm hai chục mét vuông, không kể ban-công nhô ra 1,6 mét. Đây chắc chắn là nơi cuối cùng để làm “chỗ đếm thời gian”.
Nguyên mảng tường dài là giá sách, đối diện là giường ngủ, đầu bên kia là chiếc bàn nhỏ lỉnh kỉnh giấy bút, sách báo, điện thoại… như gánh hàng xén thu nhỏ. Cuối cùng là phòng vệ sinh có gắn máy điều hòa phía trên cửa non mét rưỡi. Ngay trên đầu giường là nút chuông phòng khi nhức đầu, sổ mũi, chóng mặt… nhấn chuông báo xuống nhà dưới.
Một căn phòng được thiết kế như vậy cho ông già 80 quả là hoàn hảo. Khi thì ngồi trên ghế ngó ra ban-công gần đụng nhà bên kia đường, lúc nằm thẳng đuột dưới sàn, nhắm mắt như người hành thiền thở ra thở vào bụng phồng lên xẹp xuống vẽ những đường cong, gấp khúc, phẳng phiu về một trận chết rất đẹp, lộng lẫy cho mình.
Ông đã tính toán kỹ, rất kỹ. Thời buổi bây giờ, công nghệ thay con người giải quyết mọi sự, vì vậy ông không lo bị đói, ốm đau. Hằng ngày ông đặt đồ ăn từ một dịch vụ nấu nướng sẵn, mang tới tận nhà. Đau bệnh, cấp cứu kết nối với bác sĩ riêng, bệnh viện qua Zalo, cho nên không sợ bị chết bất thần đến mười ngày sau bốc mùi mới có người phát hiện.
Còn cái sự đã chết thì hết sức đơn giản: ông đã đặt tiền trọn gói cho dịch vụ mai táng hỏa thiêu. Khi nào chết thiệt, điện thoại tự động báo cho nhà đòn tới mang xác ông đi; tro cốt cho vào chiếc quách bằng gốm sứ Bát Tràng nhìn như chiếc hòm thu nhỏ (ông đã nhìn thấy, đẹp) rồi chở về quê, đặt xuống mả gió (đã chuẩn bị sẵn cách đây 7 năm) lấp đất. Vậy là xong. Mọi việc hết sức đơn giản, tiện lợi. Còn sự tang chế lễ lộc, con cháu tùy nghi muốn làm gì sau đó cũng được, ông đã là nắm tro, thân xác về với cát bụi rồi, biết gì nữa mà phản ứng nhỏ to?
Chuyện hậu sự như một bức tranh đẹp, giờ thì yên tâm với những ngày còn lại ở “nơi khác”.
Đừng nghĩ rằng “nơi khác” là khu dưỡng lão mini hay resort cho lão nhà giàu, cũng không phải nơi biệt giam cho một tù nhân nguy hiểm hay văn hoa chút xíu là nơi an dưỡng tuổi già. Coi kỹ lại, nó bình thường như mọi nơi chốn. Có điều là chốn ông tự chọn, bình dân; nằm lọt trong khu dân cư lạ kỳ: chẳng phải phố cũng chẳng ra quê, không là xóm trọ, không chợ búa sầm uất, chẳng thấy lũy tre, sông suối, không có loa kẹo kéo ầm ầm sấm động, không có quán nhậu dzô dzô… ầm ĩ, chưa nghe trộm cắp, mắng chó chửi mèo…Đây là khu phố không tên rất lý tưởng cho tuổi già cần sự yên tĩnh, hiếm khi có chiếc xe lớn nào chạy ngang, đường sạch bong, hàng cây hai bên đường như đội lính tập bồng súng đứng “thiên thu” chào tất cả mọi người qua lại.
Hẳn nhiên khu này cũng phải có tên gì đó, song ông già không buồn để ý, chỉ vì trước đây cũng có cái tên khiến đám đông cuồng điên nhảy cẫng như bọn lên đồng, nhưng cũng có kẻ ôm mặt khóc rưng rức vì sầu hận.
Trước mặt nhà, phía bên kia đường, ở dưới thấp khoảng 3 thước so với mặt đường, là khoảng đất trống rộng vài chục mẫu tây, cỏ mọc xanh um, lùm bụi lúp xúp, quanh năm hoa xuyến chi nở trắng xóa; thỉnh thoảng những lùm trâm ổi nhô lên điểm xuyết bằng những bông hoa năm màu tròn như trứng gà so.
Đã nhiều lần ông mò xuống khu đất này hít thở chút không khí sạch vào buổi sáng sớm, hái một bó hoa xuyến chi về cắm vào chiếc lục bình trên bàn thờ, sắn tay vò dập nắm lá trâm ổi để ngửi mùi thơm đậm. Nay thì không. Nội việc lên xuống cầu thang ba bốn bận cũng đủ cho bài tập thể dục cả ngày.
Phần lớn thời gian ông dành cho việc đọc sách và thở. Ông nghĩ, đọc sách giúp cho bộ não khỏi bị tê liệt chuyện nhớ quên, kiểm tra cặp mắt. Còn thở vào ra không phải để thành lão thiền sư mà hơn hết là quên bớt những hân hoan, phiền não… ám theo thời gian xa gần. Nhưng coi bộ cũng chỉ được vài phần vì có những thứ không tài nào lẩn tránh. Mới rặc ròng đây thôi, vừa đặt mông lên chiếc gối bông, chân trái vừa co chạm vào chân phải thì có tiếng leng keng rột rẹt phát ra trên bàn. Mới đầu nho nhỏ như tiếng dế kêu, rồi càng lúc càng to. Tâm của ông bị bẻ khóa, liền nhắm mắt mím môi, tai khép lại xua tiếng động mà nào có xua đuổi được gì! Thua. Tiếng chuông mỗi lúc một to, gắt như tiếng kẻng gõ dồn dập cấp báo cháy nhà. Ông phải mở mắt, dỏng tai, với tay về phía phát ra tiếng kêu.
Ông già mở máy.
- Anh Tư, trời… Ở đâu mà tui gọi miết?
- Ai đó? À, ba Sum… sao ở ngoãi có khỏe không. Mà có chuyện gì vậy chú? Nóng lạnh mưa gió, ruộng nương…
- Gì nữa. Anh Tư chưa hay gì sao. Con mẹ Kim Hằng lại lấy chồng nữa, anh Tư!
- Con mẽ lấy chồng thì mắc mớ gì tới chú và tôi, hè?
- 67 rồi anh.
- Thì 67.
- Nhưng mà, không phải như những lần trước, đận này con mẻ lấy thằng Việt kiều…
- Tốt chớ sao chú.
- Không phải vậy. Cái thằng sắp làm chồng mẽ mới nhinh nhỉnh 40, đáng tuổi con…
- Có sao đâu nào. Đó là coup de foud, chú biết rồi? Mà thôi, chào chú nghen. Tôi có chút việc, gọi sau.
Ông già nói và tắt máy. Ông khép mắt thở một hơi dài.
Vậy đó, muốn buông ra mà đâu có được. Những chuyện không đâu vào đâu, thỉnh thoảng ập đến như cơn giông lốc, đố mà dựng tường chắn gió lớn? Khổ cái là nó không chịu tan ngay mà cứ lởn vởn, xà quần xà nẹo chí ít cũng mươi phút, có khi cả buổi. Rồi ông cố xua đi chuyện Kim Hằng lấy chồng lần nữa, nhưng thông tin từ miệng ba Sum y như keo dán chuột, cứ lùng nhùng không chịu bay ra khỏi đầu.
Ông ngồi xếp bằng xuống gối, tập trung lắng nghe hơi thở, nhưng nó cứ phập phù như bễ lò rèn. Biết có cố cũng chẳng được tích sự gì, bèn bỏ ra ban-công kéo ghế xếp ngồi ngó chong xuống hầm đất. Hoa xuyến chi trắng xóa. Lùm bụi xanh ngắt lúp xúp nhô lên giữa rừng hoa. Mấy con bò ở mút xa… Mắt ông khép lại một chút, he hé mở ra… thở…
Ông thấy mình ôm bó hoa xuyến chi áp vào ngực. Ông nhớ tới vợ trên cao, dòm thấy con mắc dính trong hóc kẹt phù sinh, chòm xóm nhấp nhổm, những người bạn già trẻ co chân lướt dần theo thời gian trôi tuột qua cánh đồng làng. Họ chập chờn trong giấc ngủ, lung linh trên vách tường ám ố, chao lượn dưới ánh sáng lờ mờ ngọn đèn ngủ. Hàng tre đung đưa, cây duối ngái ngủ, bầy chó sủa trăng. Mọi thứ chầm chậm lướt qua… chập chờn.