|
Tôi thẫn thờ vào nhà. Con Thư ngồi khóc trên giường. Tôi hỏi, cuối câu mới ra tiếng:
- Có gì lạ không, con?
Nó nín khóc:
- Dạ, ông mục sư tới hỏi có cần gì không. Con nói nhà mình Công giáo, chắc không cần, nhưng có gì Ba sẽ điện thoại.
Tôi thấy nó trưởng thành. Nó tiếp:
- Cô Trang gọi, nói để cô mang xôi với gà quay tới.
Tôi càu nhàu:
- Con trả lời sao?
- Dạ, con nói con biết nấu cơm.
Tôi dịu lại:
- Bà ấy nói gì nữa không?
- Dạ không.
Tôi vào phòng ngủ lục tìm cái áo dài và cái quần lãnh của Hiền. Mấy chục năm trời, quần áo tôi được xếp thẳng thướm đâu vào đó; nếu sai lệch, thiếu sót một tí, tôi chỉ việc càu nhàu một tiếng là Hiền lôi ra ngay - đây là cái áo sơ-mi có cầu vai anh chê chật cả mấy năm không mặc, đây là đôi vớ len, đây là bộ pyjama anh nói giống áo tù Do-thái... Bây giờ tôi lục tung cả tủ áo cũng không kiếm ra cái áo dài lụa trắng.
- Ba tìm cái gì vậy?
Con Thư đứng ở cửa phòng tôi từ bao giờ. Hy vọng nó không nghe thấy tôi càu nhàu.
- Cái áo dài của Má.
- Để làm gì, bây giờ?
- Mặc cho Má.
- Áo màu gì cơ, Ba?
- Lụa trắng.
Từ ngày mẹ bệnh, rồi vào nhà thương, con bé đã cai quản trong nhà như bà cụ non, xó xỉnh nào cũng biết. Nó tìm được cái áo và cái quần tôi muốn. Tôi nói:
- Con tháo hết các nút bấm ra.
Con Thư ngoan ngoãn, lấy dao bào, rồi ngồi bệt trên sàn trong phòng nó ở tầng dưới, bắt đầu tháo. Hết khóc, nhưng nấc đều đặn, nó hỏi:
- Tại sao lại phải gỡ bỏ nút ra, Ba?
Tôi trả lời:
- Quần áo mặc cho người chết kỵ kim loại.
- Kỵ là gì?
Nó sanh ở nước ngoài, chưa rành tiếng Việt. Tôi giải thích:
- Kỵ là ... không ưa, không hợp.
- Con chắc chẳng cái gì kỵ Má đâu.
Đâu có đơn giản như vậy. Tôi nghĩ bụng thế, nhưng không biết đáp lại ra sao, nói:
- Phong tục người mình như vậy. Mình cứ làm như vậy thôi, con.
Mọi khi thì nó đã liến thoắng hỏi lại cho ra lẽ, nhưng bây giờ, nó hết linh hoạt, hết tò mò. Đứa con gái vừa mồ côi mẹ 12 tiếng đồng hồ, đầu cúi xuống thúc thủ, tháo mấy cái nút bấm một cách chăm chú, chứng tỏ là nó không muốn cái gì kỵ mẹ nó cả. Những ngón tay của nó giống hệt tay tôi, nghĩa là dài mà xương xẩu, chứ không mượt mà như tay mẹ nó. Nó còn nấc liên tục, lòng tôi nhoi nhói, sợ kim đâm vào ngón tay non nớt, lọng cọng của nó.
- Lúc con nấc thì ngưng tay đi, không kim đâm.
- Con có biết lúc nào nấc đâu.
Tôi lên nhà trên, khe khẽ mở tủ chè mà nó vẫn nghe, nó hắng giặng rồi nói, không cằn nhằn:
- Ba uống rượu hả?
Tôi không trả lời, rót rượu. Nó không phản đối. Tôi uống một hớp, cảm thấy như con thuyền đang quay mà chống được con sào xuống đáy sông. Tôi ngồi xuống cái ghế bên cạnh, "chống" thêm vài hơi nữa. Bần thần tay chân, tôi kéo cái hộc tủ: mấy tờ biên lai đòi tiền, cái thư cần trả lời, cục pin chưa biết xài rồi hay chưa, và mấy tấm hình chụp chung với vài cặp tân hôn, chưa biết gắn vào album nào ... Và một xấp giấy lời dặn của Hiền. Lời dặn cuối cùng được viết ở mặt sau cái biên lai Hiền đóng tiền cho tổ chức "Nhà thờ giúp trẻ em Sudan".
"Bố con ăn cơm với brocoli xào. Có trứng gà kho thịt trong tủ lạnh."
Tôi thuận tay lật vài tờ khác, lúc viết ở mặt sau cái phong bì cũ, lúc viết trên mặt sau một tờ giấy quảng cáo. Nàng viết vội vã để kịp chạy ra xe buýt đi làm trong lúc bố con còn ngủ. Nếu nàng đi làm về trễ thì câu dặn là:
"Chiều, Bố con nấu cơm sẵn chờ Má về nấu canh chua. Gạo mới, đổ ít nước thôi."
"Mín nhớ phơi đồ!"
"Mín" là tên chúng tôi gọi nựng con Thư. Nó nấc một cái to rồi gọi:
- Ba ơi! Con đã tháo hết nút bấm rồi. Bây giờ làm gì, Ba?
Tôi nói vọng xuống:
- Con kiếm một rẻo vải cắt từng khúc làm dây cột thay cho nút bấm.
- Ba nói gì, Ba?
Tôi khản cổ, không muốn nói to, lại cầu thang nhắc lại câu nói. Nghe ra, nó hỏi:
- Rẻo là cái gì, Ba?
Tôi im lặng, nghĩ từ đây cả cái nhiệm vụ dạy tiếng Việt cho con cũng do một mình tôi. Còn việc nội trợ? Và quan trọng nhất, làm sao tôi duy trì trong nó đôi nét của người đàn bà Việt Nam như mẹ nó, như bà ngoại, bà nội nó? Tôi xuống kho lục cái áo cũ mong mỏng, cắt lấy một miếng dài, bề ngang bằng ngón tay.
- Đây là một rẻo vải. Con gấp theo chiều dọc thế này rồi khâu hai mí lại. Xong luồn kim băng lộn ra thế này, thành sợi dây, cắt thành từng đoạn ngắn, khâu vào áo và quần cho Má.
- Ai chỉ cho Ba cách này vậy?
- Má.
- Hồi nào, sao Bá không chỉ cho con?
- Hồi chưa có con.
Nhà tôi đông anh em và nghèo rạc. Không đủ ăn. Tôi thức đêm học dưới mái tôn nóng như cái lò hầm, đậu tú tài xong thì ho ra máu, nhưng vẫn cứ ráng ngoi lên đại học. May tôi đậu vào y khoa, mà chẳng may tôi phải đi chụp hình phổi, và lòi ra cái phổi lũng. Hồi đó nhà thương Hồng Bàng mới lập ra một khu điều trị riêng cho sinh viên, tiện nghi, sạch sẽ hơn các khu còn lại. Tôi được nằm đó, thùng thình trong bộ đồ bệnh bằng vải trắng ngà. Một hôm tôi mang bộ đồ cũ đi đổi. Người coi kho là một dì Phước trắng xanh xao như cây chuối non. Dì hỏi:
- Bộ cũ rách rướm ra sao?
Tôi nhìn vào cái lúp giang ra như con diều trắng. Tôi nghĩ dì có thể bay được. Trả lời:
- Dạ, không rách, chỉ đứt mất dây cột.
Dì quay vào, cắt một rẻo vải dài, chỉ cho tôi khâu hai mí lại, rồi lấy cái kim băng ruôn vào, lộn trong ra ngoài. Những ngón tay trắng thoăn thoắt. Tôi được một sợi dây vải. Dì nói:
- Con trai cũng nên biết may vá.
Rồi dì cắt sợi dây ra thành những đoạn ngắn và khâu vào áo cũ cho tôi. Tôi đang thất vọng vì tưởng đi đổi đồ mới, lại chỉ được ba sợi dây, thì cô nữ tu trẻ bảo tôi chờ rồi vào kho lấy một bộ đồ mới, nói:
- Anh giữ cả hai bộ mà mặc. Bộ cũ còn dùng được. Nhớ giữ ấm cái phổi.
Được một năm, tôi tạm lành bệnh nhưng không còn đủ sức khỏe cũng như tài chánh để theo học Y khoa. Tôi bò vào Văn khoa để có thể vừa học vừa đi làm. Thời đó sinh viên đâu có việc gì thích hợp hơn là dạy kèm tư gia. Nhưng cái nhãn Văn khoa của tôi không cạnh tranh nổi với mấy người bên Khoa học, tôi phải đi bỏ báo. Một trong những nhà lấy báo, ông thầu khoán ở đường Trần Quí Cáp dặn tôi: "Trời mưa thì cậu đưa báo vào trong nhà. Cái thùng thư hở, ướt hết báo."
Một hôm trời mưa, tôi bấm chuông để đưa báo vào nhà thì vô cùng ngạc nhiên khi người che dù ra mở cổng là dì Phước phát đồ trong Hồng Bàng. Trong thường phục và tóc trần ngắn, cô gái càng trẻ hơn, nhưng vẫn trắng xanh như cây chuối non. Chính cái vẻ xanh cớm đó làm cho tôi thấy chút quen thuộc gần gũi. Nàng niềm nở:
- Ủa! Anh đi bỏ báo ... đúng vùng này hả?
Tai người nghèo dễ bị tổn thương vì những tín hiệu không rõ rệt. Nhưng tôi nhận ra trong câu nói ngập ngừng của nàng một tín hiệu thân thiện rõ rệt, rằng nàng ngạc về việc tình cờ tôi bỏ báo trúng nhà nàng, chứ không phải về chính việc bỏ báo hèn kém. Nhưng tôi lúng túng, không tìm được một câu trả lời nào thích hợp hơn một câu có vẻ ai oán:
- Nghèo quá, phải đi kiếm thêm, Sœur à.
Nàng hỏi rành rẽ như một cô y tá biết nhiều tên thuốc cho cùng loại bệnh:
- Anh thấy bỏ báo với dạy kèm trẻ em, việc nào đỡ vất vả hơn?
Tôi nói:
- Dạ, đương nhiên là việc kèm trẻ.
Nàng không nói gì nhưng tự nhiên tôi nghĩ rằng nàng sẽ giúp tôi. Hay ít nhất có ý định giúp tôi. Nàng mời tôi ngồi và đưa ra một ly nước cam vắt lạnh mát, nói:
- Anh uống để ngừa cảm. Trời mưa phải coi chừng cái phổi.
Lần đầu tiên trong đời tôi uống cam vắt để tủ lạnh, nhưng hơi mắc cỡ vì nàng còn nhớ tôi ho lao. Uống xong, tôi đưa ngón tay chùi thành ly như sợ có con vi trùng Koch bám vào.
Một tuần sau tôi nhận việc kèm cho chính thằng em trai nàng, tên Hưng. Quen thân với Hưng rồi, tôi dò hỏi biết chị nó tên Hiền. Nàng đi tu dòng Saint Paul, học y tá bên Pháp về, mới phục vụ được hai năm thì phải tạm về gia đình vì lý do sức khỏe. Tôi có nhận xét hồi này, có lẽ nhờ về nhà, nàng bớt xanh xao, nước da trở thành hồng hào. Tuy làn tóc cắt ngắn đơn sơ nhắc tôi nhớ nàng là một nữ tu, tôi vẫn thấy bên dưới đó là cái gáy trắng ngần thanh tú. Và lần đầu tiên sau bốn tháng đi lại, tôi khám phá ra nàng có đôi mắt tuyệt trần.
Như vầy: tôi thường dạy học ở phòng khách, nhưng khi có khách bất ngờ, chúng tôi lên sân thượng làm việc. Trên đó có cái bảng đen gắn vào tường một tầng lửng, chiếm khoảng một phần ba sân thượng. Một lần tôi tò mò hỏi Hưng phòng gì, nó nói nhà nguyện gia đình, và dẫn tôi vào xem. Phòng trần thiết cực kỳ đơn giản, nhưng mỹ thuật. Nền trải chiếu cói viền chữ thọ. Trên tường chỉ có một ngọn đèn dầu, ngọn lửa đỏ leo lét, huyền bí. Trần bằng nỉ khum khum xanh đậm. Hưng nói ban đêm bật đèn như bầu trời sao.
- Bàn thờ đâu?
Tôi hỏi. Nó chỉ vào một bộ tượng ba người, lớn cỡ người thật, bằng thạch cao trắng ở giữa phòng. Ông Phan Ngữ làm riêng cho ông bà bạn thầu khoán. Người đàn ông ngồi trên một cái ghế thật thấp chắc là Chúa Giêsu. Hai người đàn bà kia - một đứng xa xa, một ngồi bệt dưới sàn, bên chân Chúa, tôi không biết là ai, nhưng không muốn lộ sở đoản của mình về tôn giáo, tôi không hỏi Hưng. Chung quanh ba tượng người là mấy cái ghế thấp chủn, mà tôi tưởng người thật ngồi vào, sẽ dễ đàm đạo với Chúa và hai người đàn bà kia. Tôi chịu đó là một cảnh siêu thái.
Một hôm, cũng chạy khách lên sân thượng như vậy, nhưng nửa buổi học trời lại đổ mưa, chúng tôi phải vào nhà nguyện "tị nạn". Mở cửa, tôi thấy Hiền đang ngồi trên một chiếc ghế thấp, bên cạnh Chúa, đối diện với tượng người đàn bà ngồi. Nàng như nói tiếp câu gì đó với Chúa rồi mới ngước mắt lên nhìn tôi. Mắt nàng to, trong sáng, như cả người chỉ có đôi mắt. Như cả vũ trụ này chỉ có đôi mắt. Nàng mỉm cười chỉ tay vào một chiếc ghế trống:
- Mời anh ngồi nghỉ chân một chút.
Tôi ngồi nói chuyện bâng quơ với nàng. Tôi nghe cái giọng thanh bai dịu dàng hơn là nghe nàng nói gì. Và ngoài dự tưởng của tôi, Hiền tuyệt đối không nói gì về tôn giáo. Như mọi khi, Hiền sai em mang nước cam vắt lên cho tôi. Lúc thằng nhỏ đi lấy nước, là lúc yên lặng thiên thu. Tôi nhìn lên cái trần nỉ giả làm vòm trời, nghĩ dù là sao giả, chẳng bao giờ tôi nên với. Nàng cho biết có lẽ Chúa không gọi, vì cứ về nhà thì khỏe mà vô tu viện thì đau. Bệnh chi lạ, tôi nghĩ thế, nhưng hỏi sang chuyện khác:
- Tôi đoán đây là Chúa. Còn hai vị Bồ Tát này là ai?