|
Duyên Anh(16.8.1935-6.2.1997) |
Tác giả: J.M. Scott sinh năm 1945, vừa là một nhà văn vừa là một nhà thám hiểm. Ông từng giữ chức vụ Tổng Thư Ký hội thám hiểm núi Everest và đã xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị quốc tế, như Gino Walkins và Icebound. Hiện nay ông cư ngụ tại Cambridgeshire.
Bất kỳ câu chuyện được kể vào lúc nào lão cũng thường ngồi tại một góc giường chân bắt chéo, một tay cầm chiếc dao, tay kia cầm một khúc ngà voi làm việc liên tục.
Mỗi khi công việc hơi khó lão lại nhăn mặt, những nét nhăn trên khuôn mặt già cỗi xoắn quanh chiếc miệng móm. Tuy vậy lão hay cười làm cho những nét nhăn này trở thành ngộ nghĩnh và đôi mắt trở nên hóm hỉnh và tinh anh hơn. Chẳng bao giờ lão chỉ trích hay tán dương những câu chuyện mình kể cả. Trước kia lão là tay thợ săn lão luyện và quen biết rất nhiều người da trắng, do đó biết rất nhiều chuyện lạ lùng về những người này.
Phần lớn những đứa trẻ trong làng không thích lão lắm mặc dù đôi khi lão làm cho chúng những đồ chơi đẹp. Sở dĩ chúng không ưa lão mấy vì tính hay cười mà chúng cho là lão cười ngạo chúng. Mà ngay cả những người lớn tuổi cũng vậy. Nhưng khi lão mở miệng nói:
- Ờ, bây giờ để tôi kể một câu chuyện nhé, câu chuyện về người thám hiểm ...
Thế là mọi người vây quanh lão, nhìn lão bằng những con mắt thán phục, vì trong làng này ai cũng biết là lão biết rất nhiều chuyện, nhất là những chuyện liên quan tới giống người da trắng. Xưa kia, lão đã từng giao dịch hằng ngày với họ bằng cách trao đổi hàng hóa. Những vật trao đổi này thường là những cây lao có móc bằng ngà voi, những ngọn đèn dầu đốt bằng mỡ hải cẩu để đổi lấy những vật như những chiếc hộp bằng thiếc hay những cây kim quí giá. Vì thế chắc chắn là câu chuyện lão sáp kể phải rất lý thú.
Đợi cho mọi người im lặng, lão mới hắng giọng rồi bắt đầu câu chuyện:
"Xưa kia, lâu lắm rồi mà tôi không còn nhớ rõ chuyện xẩy ra vào thời gian nào, chỉ biết là lúc đó tôi còn nhỏ lắm, mười ba mười bốn tuổi gì đó, có một gã thám hiểm kia từ một nơi nào đó tới làng mình. Hắn to lớn, mặt đỏ như gấc và tóc rất dài. Mắt hắn không nâu như chúng ta mà lại xanh, xanh ngắt như màu của mây trời. Tóc dài, không phải chỉ mọc trên đầu mà còn mọc ở cả hai bên má và dưới cằm nữa. Hắn mặc một bộ đồ da thú rất lạ lùng mà tôi chưa hề thấy có con vật nào có bộ da lạ như vậy. Hắn kể cho chúng tôi nghe rất nhiều chuyện kỳ lạ, như nơi hắn cư ngụ, những người định cư ở trong những khu nhà mà căn nọ chồng lên căn kia, có khi cả hàng mấy chục căn chồng lên nhau và có hàng trăm khu nhà như vậy. Hơn nữa, họ lại sống ở những nơi không có hải cẩu cũng như hươu nai gì cả. Ngay cả chó sói cũng vậy, vì đó là con vật độc nhất mà họ có thể đi săn, có khi ba bốn chục người săn đuổi một con chó sói ...
Một giọng nói phía sau cất lên:
- Ồ, lão Gấu Trắng ơi, lão lại nói xạo rồi. Làm sao mà có việc ba bốn chục người đi săn một con sói được. Giả sử họ hạ được con sói đó thì làm sao mà thịt một con sói nhỏ có thể đủ chia cho ba bốn chục người. Lão kể tiếp đi, nhưng đừng bịa chuyện ra nữa.
Góc mắt lão Gấu Trắng có tia cười hóm hỉnh:
- Không, lão kể chuyện thực mà.
Những đứa trẻ vội quay lưng lại vì cho là lão nhạo báng chúng, bịa chuyện ra mà nói, coi là chúng ngu dốt chẳng biết gì. Tuy vậy chúng cũng vẫn vểnh tai lên để nghe lão kể tiếp câu chuyện.
Chúng tôi cũng hỏi hắn như vậy, hắn nói là khi hạ được con sói, người ta không ăn thịt nó đâu, mà cũng không thèm lột lấy bộ da của nó nữa. Họ chỉ cắt lấy chiếc đuôi để treo lên tường mà thôi, còn thịt thì cho chó ăn. Thật là lạ lùng, nhưng chính tai tôi nghe hắn nói vậy. Mà tôi chưa thực sự kể câu chuyện về người thám hiểm này mà.
Ít khi im lặng kéo dài một cách lạ lùng vì trong bất cứ căn lều nào của người dân Eskimo và bất cứ lúc nào cũng có tiếng động. Họ làm việc liên tục, khi thì lột da con hải cẩu, căng bộ da một con thú, nạo xương hay ngà voi, hay ít nhất cũng có tiếng ngáy của người nào đó. Tuy vậy, ta có thể cắt nghĩa cho sự im lặng này vì bây giờ là mùa đông và cũng gần nửa đêm rồi nên không ai phải vội vã hoặc có việc phải làm cả.
Sau hết, để cắt đứt giây phút im lặng này, một người lên tiếng:
- Tôi cho là gã không kiếm ăn được ở nơi hắn cư ngụ nên phải lần mò tới vùng của mình đó thôi.
Lão Gấu Trắng xua tay nói:
- Không phải vậy đâu, mới đầu mọi người trong làng đều nghĩ như thế, nhưng hắn lại nói khác. Hắn kể rằng nơi hắn ở chẳng thiếu chi thực phẩm, thú vật thì nuôi ở bên nhà, khi nào người trong nhà đói mới kêu chúng vào để giết thịt. Họ thừa mứa thịt, hơn nữa còn một thứ nữa rất ngon gọi là đường mà tôi thường nói cho mọi người biết đó ... nhưng thôi, để tôi kể chuyện của hắn cho mọi người nghe nhé ...
"Người thám hiểm đó đến làng chúng ta không phải là đi kiếm thực phẩm. Khi đến đây, hắn mang theo đầy đủ lương thực. Từ trước đã có rất nhiều đoàn thám hiểm tới đây rồi, nhưng người này tới đây một mình. Mà có biết hắn tới đây với mục đích gì không, mọi người thử đoán xem nào ... Hắn tới để tìm hiểu xem mưa và tuyết rơi mỗi năm bao nhiêu. Thế có lạ không chứ.
"Thật là kỳ lạ. Tại sao hắn muốn biết thời tiết nơi này làm gì nếu không ở lại đây? Mà nếu ở đây thì hẳn là hắn biết khí hậu nơi đây rồi còn tìm hiểu làm gì nữa. Nhưng hắn đã tới, nói là thích tìm hiểu những việc xẩy ra trong thiên nhiên với chẳng vì một lý do nào cả. Khi chúng tôi kể những điều ở trong làng này, hắn chỉ cười thôi. Hắn lại học tiếng nói của mình nhanh lắm và chúng tôi có thể nói chuyện với hắn được, mặc dù khi nói chuyện thì như nói với một đứa trẻ con mà thôi.
“Hắn thích hỏi hết cái này tới cái kia, khi chúng tôi trả lời, hắn chỉ cười. Chúng tôi không thích hắn lắm. Mọi người ở trong làng cũng chẳng ai thích người khác cười mình, phải không mấy đứa nhỏ kia? Hắn hỏi chúng tôi về sa mạc băng đá ở mãi trong sâu kia. Khi chúng tôi nói cho hắn biết đó là vùng đất của thần linh trú ngụ và sẽ giết chết những kẻ nào to gan dám xâm phạm vào vùng đất đó thì hắn chỉ cười. Hắn hỏi lại là nếu chúng tôi chưa bao giờ đặt chân tới đó thì sao biết đó là vùng đất của thần thánh, còn nếu đã tới nơi đó rồi thì phải chết, như vậy làm sao còn có thể ngồi đây nói chuyện với hắn được.
"Thân hình của hắn thật là to lớn và rất khỏe. Chúng tôi thường kéo nhau tới lều của hắn vào mỗi buổi chiều để nhìn hắn vì hắn rất lạ với bộ mặt đỏ, tóc dài và nhất là đôi mắt xanh như mắt mèo. Tuy hay đến nhưng chúng tôi không thích hắn lắm đâu, phải nói là chúng tôi sợ hắn thì đúng hơn. Lúc đó tôi mới khoảng mười ba mười bốn tuổi gì đó thôi. Hắn khỏe như con gấu lại hay cười, không phải là vui mà cười, nhưng tôi nghĩ là hắn chê chúng tôi ngu. Chúng tôi thường tới lều để nhìn hắn, cứ vào mỗi buổi chiều là đông nghẹt con nít tụ tập nơi lều của hắn vì hắn lạ lùng quá.
"Sau khi ở tại làng trong khoảng thời gian thật lâu, mỗi ngày hắn đo lượng nước mưa và tuyết. Nước mưa và tuyết được hứng trong những đồ đựng mà mình có thể nhìn thông suốt qua được. Rồi một buổi chiều, hắn nói là sẽ đi tới vùng sa mac băng đá của thần linh để quan sát thời tiết nơi đó ra sao.
"Chúng tôi biết là bất cứ người nào to gan lớn mật tới vùng đất đó sẽ không bao giờ trở lại được. Thần thánh sẽ quật chết ngay dù cho người đó có khỏe mạnh như thế nào. Chúng tôi cố nói cho hắn nghe sự nguy hiểm đó nhưng hắn chỉ cười thôi. Hắn không mang theo chó, chỉ kéo theo một chiếc xe trượt tuyết. Một buổi sáng, khi ngọn gió lạnh cuối thu thổi về, mọi người trong làng vẫn còn co ro trong nhà thì hắn bỏ lều để lên đường đi đến vùng thần linh trú ngụ. Đàn bà trong làng khóc, không phải là yêu hắn mà vì tội nghiệp cho hắn. Chúng tôi đứng ở cuối làng, nhìn hắn trèo lên dốc đá, mờ dần, mờ dần cho đến khi hắn và chiếc xe kéo đằng sau chì còn là hai chiếc chấm đen trên cánh đồng trắng toát. Sau hết, hắn biến mất".
Lão kể tới đây thì ngưng lại, với tay lấy chiếc tẩu ra hút một hơi thuốc rồi lim dim hai mắt như hồi tưởng lại quá khứ. Im lặng lại bao trùm lấy căn lều của người Eskimo. Một lúc sau, một người lên tiếng:
- Như vậy là câu chuyện của lão hết rồi phải không?
Lão vẫn ngồi ở một góc giường, hai chân bắt chéo, lắc lắc chiếc đầu còn vài sợ tóc:
- Không, chuyện còn dài lắm. Để từ từ tôi kể cho mà nghe.
- Thì lão kể đi. - Giọng nói lúc nãy vang lên. Lũ trẻ đã quay hẳn người lại và chăm chú nhìn lão. Nói cho công bình thì lão có tài kể chuyện, chuyện nào lão kể ra đều như thực, làm như lúc nào lão cũng ở bên cạnh người thám hiểm nên biết được mọi vấn đề vậy. Câu chuyện được kể tiếp:
"Người thám hiểm đi mãi, đi mãi. Đoạn đường dốc ngược như trèo lên những ngọn đồi băng đá, hắn lại phải kéo theo chiếc xe nữa. Chiếc xe này rất nặng, chất đủ mọi thứ cần thiết cho hắn trong vòng hai tháng hay hơn nữa. Chiếc lều là nơi trú ngụ hằng ngày, thức ăn đem theo là đồ ăn độc nhất tìm thấy trong sa mạc, chiếc túi ngủ đem ấm áp lại cho hắn hằng đêm, chiếc lò nấu bằng sáp paraffin, một chiếc nồi cũng như những dụng cụ đo lượng mưa, tuyết và tốc độ của gió.
"Mỗi khi ngoái cổ nhìn lại đoạn đường vừa đi qua, hắn thấy đằng sau là một đại dương với những tảng băng hà chập chờn trên mặt nước. Hắn thấy đằng sau là những ngọn núi mọc lên tại ven biển với làng mạc ở dưới chân. Vào những ngày nắng thu nhiệt độ nơi đó ấm áp, nhưng mà nơi hắn đang đứng có cao độ là 1,800 mét, những cơn gió lạnh cắt da làm cho con người không còn cảm giác nữa. Nếu trèo lên tới đỉnh, cái lạnh còn khủng khiếp biết chừng nào. Không một tiếng nói của con người, không một loài thú vật cũng như côn trùng nhỏ nào có thể sống được ở nơi đây. Nhưng hắn đã quyết tâm tới tận trung tâm sa mạc để xem khí hậu nơi đây ra sao, hắn đã thách đố cùng thần linh rồi. Dù trong trí của hắn đã hình dung được nơi này ra sao nhưng lại muốn tới tận nơi để nhìn tận mắt. Đây là chuyến đi đầy nguy hiểm nhưng hắn lại không biết sợ. Hắn không sợ hãi thiên nhiên mà còn không tin là có thần thánh nữa. Chỉ có một đường là nhìn thẳng về phía đằng trước và bước đi.
"Rồi tới một lúc nào đó, quay đầu nhìn lại về phía đằng sau thấy làng mạc đã khuất hẳn, chân trời chỉ còn lại một màu trắng xóa. Ngày hôm sau đó, con dốc bớt gay gắt, hắn đi nhanh và thoải mái hẳn. Càng đi xa, những ngọn núi ven biển khuất dần và khi chiều đến, bóng dáng ngọn núi cuối cùng cũng biến mất hẳn. Cánh cửa đã đóng hẳn lại ở phía sau lưng, tách hoàn toàn ra khỏi thế giới loài người, loài vật và sự sống.
"Nhưng chiếc lều thì thật là ấm áp và thân thiết. Chiếc túi ngủ, chiếc lò nấu, đồ ăn là những vật chí thân của hắn. Mỗi đêm hắn ở tại mỗi nơi khác nhau, nhưng không khí bên trong căn lều thì luôn luôn không có gì thay đổi. Ngoài kia dù cho gió có thể rít lên từng hồi làm lung lay chiếc lều nhưng bên trong thật là ấm áp. Người thám hiểm có thể nằm bên trong chiếc túi ngủ lắng tai nghe tiếng kêu gào giận dữ của từng cơn gió. Hắn có vẻ quan tâm tới gió. Thường thì mỗi ngày hắn đo tốc độ gió 3 lần và khi đêm đến, hắn nằm dài, duỗi chân duỗi tay thật thoải mái để nghĩ đến nó vì chính gió là động cơ thúc đẩy hắn ra đi như vậy. Do kinh nghiệm bản thân cũng như kinh nghiệm của người khác đã truyền lại, hắn hiểu là dù bất cứ trèo lên đỉnh của một tảng băng từ phía nào đi nữa thì gió cũng thổi thẳng vào mặt. Hắn suy luận là gió đã thổi từ trung tâm ra mọi chiều, do đó trung tâm sa mạc băng đá phải là nơi không có gió. Hắn phải thám hiểm vùng trung tâm này để chứng minh lập luận này là đúng.
Đây là một hành trình lâu dài mà tôi không cần phải kể lại dài dòng. Một ngày kia cũng giống như mọi ngày khác là sa mạc chất chứa đầy gió và lạnh. Những bước chân mỏi mệt nặng nề của hắn kéo lê trên tuyết, đằng sau là chiếc xe chở đồ dùng. Rồi khi màn đêm buông xuống, sau bữa ăn nóng hắn nằm trong chiếc túi ngủ ở một góc lều, nghe tiếng gió hú bên ngoài. Cái khó của gã thám hiểm là làm sao kiếm ra được trung tâm sa mạc. Không có tấm bản đồ nào vẽ nơi này cả, lại không có một giới hạn địa dư. Hắn chỉ biết là đi càng xa càng tốt với chiếc la bàn cầm tay. Chỉ có điều hắn biết chắc chắn là chưa tới khu trung tâm sa mac được nếu còn nghe tiếng gió hú. Hắn luôn luôn đi ngược với chiều gió, cứ như vậy hắn nghĩ là tới một lúc nào đó sẽ tới được nơi hắn muốn.
"Cuối cùng hắn cũng tới nơi từng mong đợi. Hắn dựng chiếc lều nơi không có một ngọn gió nào thổi cũng như không một dấu hiệu nào chứng tỏ nơi đây đã có người đặt chân tới cả. Trên suốt quãng đường tới đây, hắn đã đi trên đá cứng và trơn trượt, nhưng tại nơi đây từng lớp tuyết sâu và mềm như lông vịt, nếu có một cơn gió nhẹ tưởng chừng có thể bốc đi hết được.
"Sau khi dựng lều xong, đôi cây trượt tuyết được dựng ngược bên ngoài, hắn quan sát chung quanh một vòng rồi bỏ vào bên trong để chuẩn bị bữa ăn. Đồ ăn cũng chỉ có bấy nhiêu đó, không hơn không kém, nhưng để ăn mừng thành công hắn tự thưởng bằng một hộp chả heo. Sau khi ăn uống xong, hắn cởi quần áo và cuộn tròn lại để làm chiếc gối kê đầu. Những chiếc vớ tay, vớ chân và đôi giầy đã được treo lên cho khô. Hắn chui vào chiếc túi ngủ, hai tay vòng ra sau gáy, đôi mắt xanh nhìn lên chiếc cọc chính giữa căn lều.