|
Duyên Anh(16.8.1935-6.2.1997) |
Vài hàng về tác giả: Sinh ra tại Dresden, Rodolfo Caltofen luôn luôn quan tâm tới sự thông cảm giữa người với người. Tư tưởng này làm cho ông bị gửi tới trại tập trung trong thời Đức Quốc Xã. Những tác phẩm của ông được xuất bản tại Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thụy Sĩ, Pháp và Ba Tây. Ông cũng đoạt được nhiều giải thưởng văn học tại các nước Đức, Mễ Tây Cơ và Pháp.
Khi thưởng thức ly rượu vang thơm ngon trong một bữa tiệc linh đình với bạn bè thân thuộc, bạn thấy ly rượu này như một tặng phẩm quí giá của thượng đế ban cho loài người vậy. Dù cho bạn đang ở Đức hay Anh, đang ở Ba Tây hay Úc, tân thế giới hay cựu thế giới, sự sảng khoái khi uống ly rượu đều như nhau.
Nhưng ngoại trừ tại một làng bé nhỏ tên là Paiz de Vinho thuộc nước Bồ Đào Nha, nơi gốc gác của rượu nho thì lại khác.
Nếu bạn đi ngược lên Regoa rồi tới miền núi thượng Duero, nơi trồng các loại cây nho cho nồng độ nhẹ, qua vùng Villa Real rồi đi lên cao hơn nữa, sâu vào vùng sơn cước hoang dại Corco, nơi đây người ta trồng các loại nho cho nồng độ nặng, bạn sẽ hiểu tại sao. Nếu ai không hiểu việc làm cực nhọc như thế nào thì mời bạn tới đây sẽ biết ngay: từ con nít tới ông già quần quật làm việc từ sáng sớm tinh mơ tới tối mịt trong những vườn nho rộng lớn. Quanh năm cây nho cần được chăm sóc thật tỉ mỉ. Rồi khi mùa thu hoạch qua đi, khi cây nho được nghỉ ngơi, công việc nặng nhọc lại bắt đầu. Người ta buộc những chiếc thùng vào sau lưng, mang đất từ phía dưới những vùng đất thấp để đổ vào lại các vườn nho ở trên cao mà trong năm mưa đã làm trôi đất đi. Vườn nho cần được tái tạo. Mỗi mảnh vườn dù nhỏ tới đâu cũng cần phải được cuốc xới, tái tạo, công việc nặng nhọc này phải được lập đi lập lại năm này qua năm khác. Thượng đế cũng đã tạo nên đồi núi phẳng lì với những chiếc vách dựng đứng như thành chiếc bát trơn tuột. Nơi đây là một thách đố của thiên nhiên đối với con người. Những rặng núi khổng lồ cằn cỗi đầy thù nghịch bao bọc chung quanh họ, nếu muốn sống còn, người ta phải khuất phục chúng không ngừng nghỉ.
Khi nhìn thấy đoàn người đeo những chiếc thùng chứa đầy ắp đất và trèo ngược lên cao với những bậc như vô tận, bạn sẽ nghĩ họ không những chinh phục núi non mà ngay cả trời xanh kia. Không những họ mang đất lên để tái tạo lại vườn nho mà hình như họ còn muốn kéo cả mặt trời xuống nữa.
Người dân trong làng Paiz de Vinho thật chơn chất, nhún nhường và bình dị. Nhưng nếu hài lòng với cuộc sống vất vả như vậy thì vẫn chưa đủ nếu họ biết là tại nơi nào đó trong thế giới ngoài kia, người ta đang thưởng thức những thành quả khó nhọc của họ. Người trong làng Paiz de Vinho cũng cần một người thân yêu nào đó coi sóc và lo lắng cho họ ngày lẫn đêm. Nói khác đi, có thể họ sẽ có cùng số mệnh giống như lão già Tư Đến vậy.
Lão già biếng nhác Tư Đến lúc nào cũng say mèn bị cả làng khinh bỉ. Mỗi sáng khi mở cửa cầm cây chổi quét những bực đá trước nhà, nhìn thấy lão ngồi chồm hổm gần đó, cô bé gái nhà Vũ Lê thường nói:
- Này lão già Tư Đến kia ơi, hãy kiếm công việc gì làm đi chứ.
Và lão thường trả lời cô:
- Đúng, đúng rồi bé cưng ạ.
Rồi lão hăm hở với tới đống cá khô đổ dưới đất sát gần cửa, nhặt hai con cá cứng như hai khúc gỗ lên rồi đập vào nhau, bụi bặm lẫn vẩy cá tung lên làm thành một đám bụi mù. Nhưng chưa làm xong một chục con lão đã lê chân ngồi về chỗ cũ. Con két trong lồng dưới mái hiên kêu lên những tiếng quang quác vang dội, lão nhe răng cười với nó: "Chào bạn" rồi phủi hai tay ngồi xuống bực cửa.
- Này lão già Tư Đến kia ơi, hãy kiếm công việc gì làm đi chứ.
Cô bé nhà Tư Lê thường nói với lão vào mỗi buổi trưa khi cô đứng ở quầy bán hàng, cắt những miếng xúc xích thành từng miếng nhỏ bằng ngón tay hay mở những hộp cá mòi.
- Đúng, đúng rồi, bé cưng ạ.
Lão Tư Đến cũng thường nói như vậy rồi vội vã chạy ra con suối ở cuối đường. Lão như bận rộn múc đầy nước vào chiếc xô, mỗi bước đi nước lại bắn lên tung tóe. Trước khi mang đủ nước uống cho con lừa con, lão đã lê chân về chỗ cũ. Con két trong lồng dưới mái hiên kêu lên những tiếng quang quác vang dội, lão nhe răng cười với nó: "Chào bạn", rồi phủi hai tay ngồi xuống bực cửa.
- Này lão già Tư Đến kia ơi, hãy kiếm công việc gì làm đi chứ.
Cô bé nhà Vũ Lê thường nói với lão vào mỗi buổi tối khi cô bận bịu chạy tới chạy lui giữa những thùng rượu vang và chiếc chảo chiên cá.
- Đúng, đúng rồi, bé cưng ạ.
Lão cũng thường nói như vậy rồi vội vã chạy tới chiếc bồn rửa chén, làm như bận rộn với chồng bát đĩa, ly tách dơ, nhưng được nửa chừng, lão đã lê chân về chỗ cũ. Con két trong lồng dưới mái hiên kêu lên những tiếng quang quác vang dội, lão nhe răng cười với nó: "Chào bạn", rồi phủi hai tay ngồi xuống bực cửa. Cứ như vậy tháng này qua năm nọ, cuộc sống của dân làng Paiz de Vinho cũng như của riêng lão trôi qua một cách bình thản.
Thỉnh thoảng có người khuyên bảo lão nên sửa đổi lại nếp sống nhưng lão chẳng bao giờ thèm để ý tới họ. Đối với lão, trên cõi đời này lão chỉ nhìn thấy và nói chuyện được có hai người, một là cô bé nhà Vũ Lê, sau là con két trong lồng mà thôi. Cũng có người đứng ngay trước mặt và nhìn thẳng vào lão, nhưng lão chỉ nhìn xuyên qua như người đó làm bằng thủy tinh vậy.
Lão Tư Đến thường ngồi im lặng bình thản một cách vô tội trong một góc quán nhưng chẳng một ai trong làng lại quên được lão. Mọi người đều nhớ rõ một lần có người đã xách cổ rồi ném lão ra khỏi quán vì không ai muốn ngồi chung với một lão già say cả. Máu trên đầu bê bết, trông tựa như một người rừng cho đến khi cô bé xuất hiện. Cô cầm tay áo lão rồi nói:
- Đứng lên, đứng lên đi, lão Tư Đến.
Lão ngoan ngoãn theo chân cô bé vào lại trong quán và ngồi co ro ở một góc như một đứa trẻ vâng lời cha mẹ.
Mọi người đều nhớ rõ có một lần người ta cho lão một chiếc ly bằng đất nung vì lão đã đánh bể nhiều chiếc ly thủy tinh rồi, việc này làm lão nổi giận, gây nên nhiều cuộc ẩu đả và chiếc ly đất này cuối cùng cũng rớt xuống đất vỡ tan tành. Cô bé phải tới nhặt những mảnh vỡ rồi nói với lão:
- Không sao, không sao đâu, lão Tư Đến ạ.
Rồi từ đó lão phải uống bằng chiếc ly bằng thiếc giống như một đứa trẻ ngoan ngoãn vậy. Từ khi lão chiếm vị trí trong một góc quán, dù trời mưa hay trời nắng, tuần này hay tuần sau, sáng sớm hay khuya khoắt, lúc nào chiếc ly bằng thiếc cũng ở trước mặt lão. Vào khoảng trưa, lão bắt đầu lẩm bẩm những câu khó hiểu và dùng rượu vang đổ vung vãi để vẽ những hình ảnh nghệch ngoạc trên chiếc bàn gỗ. Đến khi chuông chiều đổ, lão bắt đầu cười rồi khóc. Vào xế chiều khi khách tới đông, hai chiếc ghế có chiếc lưng cao nghều được đẩy tới ngay trước bàn của lão và một tấm màn được căng ra, ngăn khu vực của lão riêng biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Khi mặt trời tắt hẳn, những tiếng nặng nề như những bao gạo phát ra làm người ngồi phía sau lưng hai chiếc ghế cao cũng nghe thấy:
- Nhưng tại sao em lại làm như vậy? Làm sao em có thể chịu đựng được khi lúc nào cũng có mặt lão già đê tiện quanh quẩn nơi này?
- Em không biết nữa ... Em không thể nào làm khác hơn được...
- Vậy thì có bao giờ em nghĩ có thể lấy được của lão già lười biếng đó một đồng xu nhỏ nào không?
- Em không biết nữa ... Em không thể nào làm khác hơn được ...
- Lão ta mặc một chiếc áo mới. Làm sao em có thể nhìn lén sau lưng lão ta được hả em?
- Em không biết nữa ... Em không thể nào làm khác hơn được ...
Dần dần những lời khiển trách trở thành những câu quở mắng rồi biến thành lời mắng mỏ, cho là cô ta quá trẻ và cả dân làng đều qúi mến cô. Có phải đó là lòng thương yêu hay không? Nhưng đây chỉ là câu hỏi ngớ ngẩn. Cô ta không bao giờ nói một lời cải chính hay chống đối lại những câu nói quở trách hay lời mắng mỏ. Cô cũng chẳng bao giờ chú ý tới lời nói của người khác.
Tên cô là Đoan Trinh có nghĩa là tinh khiết và con người của cô đúng như cái tên gọi. Bất cứ người nào trong làng cũng có thể đặt tay lên trên ngọn lửa mà thề độc là cô ta thật đoan trang và tinh khiết. Ngoài tính tình thùy mị ra, cô lại có khuôn mặt trái soan thông minh và đáng yêu. Với những đặc tính trời ban, cô có thể có nhiều bạn trai nếu cô muốn.
Nhưng cô lại luôn luôn giữ một khoảng cách xa với mọi người. Điều này thực là khó thực hiện vì cô là chủ quán nhỏ trong làng này mà mẹ để lại khi bà mất lúc cô mới được mười bốn tuổi. Rồi tiệm tạp hóa trở thành quán rượu về đêm. Ban ngày rất an toàn, quán bán dầu ăn, cá mòi, cá khô, phó mát ... cùng những đồ vặt vãnh như mũ, giầy, đồ gốm. Nhưng khi tiệm tạp hóa đóng cửa, cô phải làm việc giữa những dãy bàn ghế chật chội. Qua vài ly rượu, những người đàn ông trở nên bạo dạn hẳn 1ên. Đôi lần có người dám vòng tay ôm ngang hông hay theo cô vào trong bếp, nhưng dần dần họ hối hận với hành động thiếu suy nghĩ này. Họ hiểu và nhận ra một điều đây là cô Vũ Thị Đoan Trinh chứ không phải là giống như nhiều cô gái khác.
Thời gian trôi qua như vậy đã lâu lắm và có lẽ sẽ như vậy mãi nếu ... nếu một ngày kia cô Đoan Trinh không tuyên bố là sẽ đính hôn và nếu lão Tư Đến không hiện diện vào buổi hội sau mùa thu hoạch. Đầu tiên mọi người trong làng không muốn tin vào việc cô đính hôn, nhưng tấm biển đã được căng ra, vì vậy đây phải là một tin có thực, không còn nghi ngờ gì nữa. Người đính hôn với Đoan Trinh là Quốc Huy, một trại chủ nhỏ. Nói là nhỏ nếu nói về kích thước của trang trại, nhưng không nhỏ nếu nhìn vào sức phát triển của nó. Mọi người hài lòng với sự chọn lựa của cô vì anh này là một người coi được nhất trong số các thanh niên trong làng: siêng năng, cần mẫn, trầm lặng và hòa nhã.
Đoan Trinh và Quốc Huy bây giờ như cây liền cành, chim liền cánh. Họ hiểu nhau qua ánh mắt, thông cảm nhau, nhưng chỉ có một điều không đồng ý với nhau về lão Tư Đến. Dân trong làng thì thầm với nhau là hai người còn cãi nhau khi họ đề cập tới lão nữa. Mặc dù cố tránh né, cố giữ im lặng không cho ai biết về sự bất đồng ý kiến này, nhưng khi thằng bé bán rau tới tiệm, nó nghe được lời to tiếng của Quốc Huy và câu chuyện này được rao truyền mọi nơi mà ai cũng biết như sau:
- Em không biết mắc cở à? Em không thấy là lúc nào lão cũng nhìn em chòng chọc sao? Anh thì không thể nào chịu đựng lâu hơn được nữa. Anh muốn biết tại sao em lại để cho lão ...
- Em không biết nữa ... Em không thể nào làm khác hơn được ...
- Đó không phải là câu trả lời.
Cô im lặng. Anh ta đập tay xuống bàn rồi la lớn:
- Anh muốn một lời giải thích của em.
Giọng cô như cầu khẩn:
- Em không biết tại sao nữa ... Nhưng em không thể nào làm khác hơn được ...
Từ ngày Đoan Trinh làm lễ đính hôn, thái độ của lão Tư Đến thay đổi rõ ràng. Lão không còn giúp đỡ ai, không nói chuyện với con két nữa. Lão ngồi bất động hàng giờ, mắt chăm chú nhìn, nhìn thẳng vào cô. Rõ ràng là cô thấy sợ, nhưng lão chẳng thay đổi mà còn có những hành động ngược lại là đằng khác. Bây giờ lão không còn ngồi im lặng trong một góc quán nữa. Khi cô đi đâu, ra ngoài đồng, tới sông lấy nước, vào trong vườn nho, cô đều thấy lão lẽo đẽo theo phía sau, nhìn cô buồn bã với con mắt như trách móc, như van xin.
Khi quán vắng người, cô nói với lão:
- Lão Tư Đến ơi, xin đừng làm như vậy nữa.
Lão ngồi vào chiếc ghế gần cô nhất, hai tay ôm lấy mặt khóc rấm rức.
Không khí trong quán như ngột ngạt, như sầu thảm.
- Lão Tư Đến ơi, xin đừng làm như vậy nữa.
Lão ngồi tựa lưng vào tường, hai tay ôm lấy mặt khóc rấm rức.
Rồi mùa xuân tới khi cây nho như bắt đầu bị “nhỏ máu”. Thường thì hàng năm vào lúc này, Lão già Tư Đến bận rộn và hay rời khỏi quán. Người ta thấy lão lăng xăng chạy tới chạy lui trong những vườn nho như thể tìm kiếm vật gì đó. Khi thấy một cây nho có máu nhỏ xuống, với tay không lão cào đất hay vội vã chạy tới gò cao, lấy đất rồi đổ trong mũ hay trong chiếc khăn tay, hăm hở chạy về để đắp vào 1ỗ hổng của cây. Vì vậy các chủ vườn đều có cảm tình với lão và cũng vì vậy ít người ghét bỏ lão. Họ thường nói với nhau:
- Lão có phải là người giống mình không nhỉ?
Chắc là cô bé Đoan Trinh cũng nghĩ như thế.
Mùa hè nóng nực và yên tĩnh trở lại, nhưng với lão thì không vậy. Mùa thu tới với rừng lá nho xanh tươi chuyển sang màu vàng nhạt rồi màu đỏ. Trái nho cũng ngả sang màu vàng. Những tuần lễ thu hoạch bắt đầu. Hàng năm vào lúc này người ta thường thấy lão xuất hiện trên vùng núi dù cho lão chẳng làm cho chủ vườn nào cả. Lão lang thang trên những ngọn núi trọc, đứng im lặng hàng giờ nhìn xuống vùng Barros Rabello, nằm giữa những triền đá thẳng đứng và vườn nho đang trong mùa thu hoạch. Nếu trời quang đãng, người ta có thể nhìn thấy lão rõ ràng từ xa.
Năm nay, Tư Đến không trèo lên núi nữa. Lão lảng vảng tại khu vườn nho mà Đoan Trinh làm việc. Lão không giúp việc hái nho hay bỏ trái nho vào thùng rồi mang vào nhà kho. Lão chỉ đứng đó, mắt chăm chú nhìn Đoan Trinh, tay cầm một cây đàn vỹ cầm đứng bên người chơi chiếc đàn thùng.
Khi người chơi đàn thùng ngừng tay, toán thợ hái nho cũng nghỉ mệt và Tư Đến bắt đầu kéo vỹ cầm. Toán thợ không ngờ lão lại chơi đàn hay đến thế, có một cái gì khiến mọi người phải chăm chú theo dõi. Họ nói với nhau:
- Tại sao lão lại biết những bản nhạc này nhỉ. Đó là bài hát mẹ tôi thường ca khi tôi còn nhỏ mà.
- Đúng rồi, bản này lâu lắm tôi mới được nghe lại.
- Tôi cũng vậy.
Lão già kia ơi, lão có cảm thấy điều đó không? Đôi khi đang chơi nửa chừng, lão ngưng lại rồi chơi sang những bản nhạc có tiết tấu hoàn toàn khác hẳn. Thật là lạ lùng, chưa một ai trong làng được nghe những nhạc điệu như vậy.
Một ngày kia, trong khi đang kéo đàn thì lão già cúi rạp người xuống. Mọi người đợi lão chơi tiếp, bây giờ ai cũng mê điệu đàn của lão rồi, nhưng lão không tiếp tục kéo đàn nữa. Lão qùy xuống bên cạnh một gốc cây nho, chiếc đàn vỹ cầm đặt bên cạnh, rồi với hai tay không, lão bắt đầu cào đất như một gã điên cho tới một lúc đào lên được một chiếc bông tai bằng vàng.
- Này lão già, kéo đàn tiếp đi chứ. - Lúc này, lão run rẩy qụy xuống, hai tay nâng niu chiếc bông tai, hai hàng nước mắt chẩy ra, miệng lẩm bẩm: “Đây rồi, đây rồi”.
- Này lão già kia ơi, kéo đàn cho chúng tôi nghe đi.
- Để lão yên, lão lại bị mất trí rồi.
- Để lão yên, lão lại say rồi.
- Này lão già kia, đứng lên kéo đàn cho chúng tôi nghe đi chứ.
Họ thẩy ra những đồng tiền bằng đồng và đưa một chai rượu cho lão, nhưng lão chẳng thèm lấy tiền hay rượu cũng như không cầm cây đàn vỹ cầm lên. Lão cầm lấy một con dao rồi bắt đầu nhập cùng bọn thợ chặt những cây nho già. Mọi người nhìn nhau lắc đầu. Và công việc tiến hành ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần kia. Tư Đến làm việc quên cả mệt nhọc, lão là người đầu tiên đi làm và cũng là người cuối cùng nghỉ tay mỗi ngày. Hình như là lão cố gắng làm bù lại cho chuỗi ngày đã đánh mất trong suốt cuộc đời của lão vậy.