|
Nguyễn Thanh Liêm(12.3.1933 - 17.8.2016) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Huỳnh Như Oanh nằm nghiêng trên giường, đầu gối lên cánh tay, mắt mở to nhìn qua cửa sổ mở rộng. Trời đêm long lanh sao. Gió biển lùa qua màn, vờn lên tóc, đưa nàng vào ý nghĩ miên man.
Tiệc đã tàn hơn hai tiếng, vậy mà nàng tưởng như đang còn ngồi đó, đối diện Võ Bằng. Cuộc đàm thoại cứ văng vẳng:
– Còn trẻ như anh mà đã là Hạm trưởng. Hẳn anh yêu biển lắm!
– Biển là người yêu của tôi.
– Mười lăm ngày ở đây, Như Oanh đã cảm thấy biển thật đáng yêu. Nhưng chừng nào biển mới trở thành… người yêu?
– Chừng nào cô ngắm biển hoài mà không chán!
– Khi nào thì chán?
– Biển luôn đợi chờ, thủy chung, sao lại chán?
– Nếu có người biết đợi chờ, biết thủy chung, thì có thể thay được biển không?
– Tôi chưa gặp người như thế. Nhất là người càng đẹp, càng sợ.
Nhiều người khen nàng đẹp, không ít người đã khổ vì sắc đẹp của nàng. Còn Võ Bằng thì sợ, né tránh. Nàng đã thử đưa anh chàng vào thế kẹt:
– Ngày mai Như Oanh xuống thăm tàu anh nghen?
– Mai tàu ra khơi…
– Vậy… lúc tàu về?
– Có cần thiết lắm không?
– Như Oanh chưa từng biết chiến hạm ra sao…
– Em gái phu nhân Tư lệnh Hải Quân Vùng mà chưa từng biết chiến hạm! Cho phép tôi nghi ngờ. Thêm một thắc mắc, người đẹp như cô làm gì nơi khỉ ho cò gáy này?
– Để tận hưởng … khỉ ho cò gáy!
Nàng đã bật cười. Anh cũng cười. Rồi bỗng dưng nàng thú nhận:
– Như Oanh vừa tốt nghiệp Đại học Sư phạm, ra đây chơi, chờ lệnh bổ nhiệm.
– Sẽ dạy môn gì?
– Văn. Việt Văn.
– Văn học nuôi dưỡng tâm hồn. Nhờ cô viết một bài về những chuyến hải hành… chẳng về đâu!
– Ý anh là sao?
– Cứ viết đi. Rồi sẽ hiểu.
Võ Bằng ám chỉ gì? Vì sao hải hành chẳng về đâu? Vì sao người càng đẹp càng sợ? Anh thù ghét phụ nữ đẹp? Vì từng bị phản bội? Như Oanh nhất định tìm hiểu. Nhưng khi nào anh trở lại? Liệu lúc ấy nàng còn ở đây không?
Mà việc gì lại phải thắc mắc! Nàng bóp trán, bâng khuâng. Tình yêu chăng? Hay chỉ là ngọn sóng bất ngờ tạt vào mát rượi tâm hồn rồi rút xa mãi mãi?
Tiếng gõ cửa đánh thức nàng. Giọng âu lo của chị:
– Trưa quá rồi. Dậy đi. Em có sao không?
Nàng ngồi bật dậy:
– Em khỏe. Cho em vài phút.
Một sức mạnh vô hình đẩy nàng đến cửa sổ. Gió lướt qua cầu tàu kết bằng những ponton nổi. Như Oanh trách mình dậy trễ. Chiếc Rạch Gầm đã ra khơi. Anh đang đi về đâu? Đang đứng trên đài cao hướng đến chốn nào? Có nhìn ngọn đồi dạ tiệc đêm qua? Thật lạ lùng! Suốt hai tuần ở đây, đôi lúc nhìn cầu tàu, nàng thờ ơ. Sao bỗng dưng sáng nay lại hụt hẫng?
Nắng phủ tấm lụa vàng lên mặt biển lặng lờ, lên những chiếc thuyền câu mong manh, những núi đồi cây cỏ xanh tươi.
Chị nàng bước vào, thấy em gái lặng lẽ bên khung cửa nhìn ra biển, mỉm cười:
– Đang tương tư lính biển chăng?
– Có nên không? Chính chị đêm qua cảnh báo em ngay từ đầu: em sắp làm đám hỏi.
– Tình yêu như sóng vỡ bờ. Chị không muốn thấy thêm một người đau khổ vì em.
– Còn nếu em chính là ngọn sóng đó?
– Năm năm làm vợ lính biển, năm năm lúc xa lúc gần, chia tay rồi tái hợp, tình yêu lúc nào cũng mới. Đó là kinh nghiệm của chị.
– Ba khó tính, dễ gì chịu thất hứa.
– Hôn nhân là của em. Quyết định là của em. Như chị ngày xưa ba cũng đâu bằng lòng.
– Còn một trở ngại lớn hơn: anh ấy đâu ngó ngàng gì tới em!
– Nếu em đã quyết ý thì đâu khó! Đẹp như em…
– Chính “đẹp như em” là trở ngại lớn nhất, anh ấy nói thẳng rồi, càng đẹp càng sợ.
– Thì nghĩ cách cho chàng ta hết sợ.
Cả hai phá lên cười, cùng vào bếp lo cơm trưa…
Tiếng chuông reo. Chị nàng ra mở cửa. Vinh – vị hôn phu tương lai – dang tay, tươi cười:
– Chào người đẹp của anh!
Ở Sài Gòn, hai người thường ôm nhau siết chặt. Nay nàng bước tới, miễn cưỡng. Vinh nới lỏng vòng tay, cười đùa:
– Bộ nhớ anh đến mất ngủ hay sao mà trông héo hon vậy?
Như Oanh cười, nụ cười không che giấu hết bối rối:
– Sao anh không báo trước?
– Cho em bất ngờ mới vui hơn chứ!
– Anh tới bằng gì?
– C.130. Phi cơ gì mà không có ghế, báo hại anh phải ngồi bẹp trên sàn. Mệt đứt hơi!
– Rồi ai đón anh?
– Anh Thám cho tài xế ra đón.
– Ngon ghê! Mời sếp ra salon nghỉ cho khỏe đi. Như thường lệ, bia chứ?
– Budweiser, nếu có thì tuyệt. Không thì nước lạnh cũng ngon.
Khi mở tủ lạnh lấy bia, lòng Oanh chợt xao động. Phải yêu lắm mới chịu khó vất vả như vậy. Thế mà nàng… thả mồi bắt bóng!
Đưa lon Budweiser, Như Oanh vui vẻ:
– Anh nghỉ được mấy ngày?
– Hôm nay, ngày mai, ngày mốt. Ngày mốt phải về. Mỹ đang rút bớt quân. Tình hình khó khăn. Ba phải can thiệp mới được sếp cho đi hai ngày…
Như Oanh thẫn thờ. Ba ngày, không biết lâu hay mau đây? Nửa ngày qua rồi, phải làm gì cho hết thời gian còn lại?
Trong cơm trưa, chị nàng cứu bồ. Anh Thám sẽ có chương trình thăm viếng cho hai em ngày mai ngày mốt. Tối nay 7 giờ dùng cơm gia đình. Từ giờ đến đó, hai em tự do.
Như Oanh và Vinh thả bộ qua khu chợ đã tan từ sớm. Chợ gồm mươi gian hàng, mươi sạp pallet chồng lên nhau. Đa số chủ nhân là vợ lính. Ngư dân An Thới không nhiều, tất cả đều tự túc. Chỉ gia đình lính là cần.
Họ ngồi trong một quán nhỏ ven biển, bàn ghế ọp ẹp. Vinh uống bia quân tiếp vụ, Như Oanh dừa tươi. Nàng thường nhìn ra khơi, lặng lẽ. Chàng thì huyên thuyên về tình hình Sài Gòn, về các tổ chức chống đối chính quyền, về Việt-Nam-hóa chiến tranh, giảm quân tham chiến, về hòa đàm Paris. Nàng vờ lắng nghe, khuyến khích để chàng không đề cập đến… chuyện chúng mình.
Năm giờ chiều họ về lại tư dinh anh rể chuẩn bị cơm tối. Bữa cơm rất vui, nhờ tài hoạt bát của Tư lệnh. Ông kể những đặc điểm của quận lỵ Dương Đông, đặc biệt Quận trưởng là một Thiếu tá Hải Quân. Ông nói qua về các xã Bãi Thơm, Cửa Cạn, Hàm Ninh, Dương Tơ, Thổ Châu. Như Oanh vốn ghét môn địa lý, nhưng không hiểu sao lần này nàng thích thú lắng nghe và ráng ghi nhớ…
Mười giờ sáng. Sáu người đến Mũi Ông Đội. Trời trong, gió nhẹ. Biển xanh như ngọc, mặt nước êm như gương. Chiếc tiểu vận đỉnh chật vật len qua những mỏm đá ngầm, rồi ủi mũi vào bãi cát trắng pha sỏi vụn. Đảo trông hoang vắng. Vài căn nhà nhỏ nép dưới tán dừa. Phía trên là đồi, rồi rừng, rừng nối rừng như vô tận.
Hai anh lính đi theo phụ giúp cắm dù, bày bàn, nhóm lò. Rồi bỏ đi câu. Bốn người còn lại mang giày nhựa, đeo kính lặn, ống thở, len lỏi dọc ven bờ. Thấy dáng người, từng đàn cá túa ra. Ánh nắng xuyên sóng lăn tăn, phản chiếu lên rạn san hô thành vô vàn sắc màu rực rỡ.
Hai con cá bống mú câu được nướng tại chỗ, thơm lừng. Thơm hơn mùi cá nướng đêm qua. Vinh vồn vã gắp thức ăn cho Oanh, dù nàng từ chối nhẹ nhàng. Võ Bằng thì khác, chỉ gắp khi nàng gật đầu. Sự tế nhị ấy, tưởng nhỏ, lại khiến nàng nhớ mãi.
Tư lệnh Thám chỉ tay về một căn nhà xa:
– Các em có biết vì sao nơi này gọi là Mũi Ông Đội?
Không ai trả lời. Ông kể:
– Ngày xưa, quân Tây Sơn truy đuổi Gia Long. Đến vùng này, thuyền mắc cạn. Một cai đội nhảy xuống gỡ neo, bị sóng cuốn mất. Sau này, khi đã làm vua, Gia Long quay lại, lập đàn tế, truy điệu. Gọi nơi này là Mũi Ông Đội, để ghi nhớ người lính hy sinh vì nghĩa cả.
Oanh lầm bầm: “Với người ơn thì hết lòng báo ơn, với kẻ thù thì hết dạ báo thù!”
Sau bữa ăn, Vinh rủ nàng đi dạo dọc bãi. Họ ghé thăm căn nhà của một ngư ông. Ông lão với mái tóc tuy bạc trắng nhưng dáng khỏe mạnh, tiếp đón niềm nở. Ông dẫn họ đến một miếu nhỏ thờ vua Gia Long. Trước miếu là tượng cọp, bên trong là linh vị, nhang khói nghiêm trang. Bên cạnh là giếng cổ, giếng cạn mà không khô, nước trong quanh năm, gọi là Giếng Tiên.
Tự dưng Như Oanh hỏi xin ông cụ thắp nhang. Nàng chắp tay khấn vái ba lạy. Lịch sử qua sách vở chưa hề làm nàng động tâm. Mà ở đây, đất trời, biển đá và miếu thờ như dòng sông thiêng cuốn nàng đi…
Nàng ngập ngừng hỏi lão ông:
– Cụ ở đây một mình?
– Còn hai đứa con trai. Vợ tôi mất hai năm rồi.
– Ngoài nơi này, còn nơi nào nên đến nữa không cụ?
– Mũi này chỉ có san hô, giếng, miếu thôi. Còn như cô cậu muốn xem đảo đẹp, phải ra Hòn Thơm.
Trên đường trở về, Vinh nói nhỏ, nửa đùa nửa thật:
– Em lạ lắm. Thường ngày tếu táo, hôm nay lại trịnh trọng thắp hương.
– Có lẽ em… đang đổi thay. Như trước đây em ghét Gia Long, giờ thấy ông cũng không tệ!
– Như trước đây em vồn vã, giờ em lạnh nhạt?
– Ý anh là sao?
Vinh cười, lắc đầu:
– Đừng làm bộ!
Rồi anh đổi giọng nghiêm trang:
– Nhắc đến Gia Long anh mới nhớ. Mục đích anh ra đây cũng vì tin vui này. Ba cho biết em đã được bổ nhiệm về dạy trường nữ Trung học Gia Long.
Nàng đứng khựng lại. Mắt mở lớn. Dạy trường Gia Long! Khó tin quá! Nàng vẫn đinh ninh may mắn lắm là được dạy gần Sài Gòn. Chắc chắn ba của Vinh đã can thiệp. Vậy là… kẹt cứng rồi!
Vinh nắm tay nàng, hớn hở:
– Em còn nhớ lần đầu mình hôn nhau không?
Oanh im lặng. Hôm ấy, anh đưa nàng đi Quán Đồng Quê ở Thủ Đức. Giữa bữa, anh tặng món quà sinh nhật – chiếc xuyến vàng nàng từng ao ước. Nàng xúc động, hôn anh ngay giữa chốn đông người.
Giờ nhớ lại, cảm xúc như xưa không về. Phải chăng vì… Nàng đảo mắt nhìn Vinh. Rồi lắc đầu tự nhủ: “Đâu lẽ! Chỉ mới gặp vài giờ. Điển trai ư? Vinh cũng hơn hẳn. Năng nổ, vui vẻ? Vinh càng hơn. Nhưng… nhưng sao cứ nhìn Vinh là hình ảnh Võ Bằng thấp thoáng? Như Oanh ơi, mi chỉ là khách lạ trên đảo hoang. Hãy quay về bến cũ.”
Vinh nhìn nàng, giọng nhẹ như hơi gió:
– Em thay đổi thật rồi. Anh tưởng, nghe tin bổ nhiệm, em sẽ mừng, sẽ ôm hôn anh chứ?
Nàng chống chế:
– Không tiện. Có anh chị nhìn…
– Ngày xưa em không rụt rè…
Nàng im. Anh gằn nhẹ:
– Cả chiếc xuyến cũng không thấy em đeo.
– Em để ở nhà, sợ bơi lội, rớt xuống biển.
– Chớ không phải… tại đổi thay?
Nàng siết nhẹ tay anh. Gió biển mát rượi. Tóc nàng bay chạm má. Nàng nhoẻn cười:
– Không phải em thay đổi. Mà là… em bắt đầu nhận ra.
– Nhận ra điều gì ở chốn buồn tênh này?
– Nơi buồn tênh này hợp với tâm hồn em.
– Nghĩa là sao?
– Em vẫn yêu quý anh. Nhưng có lẽ… em đang sợ những con đường đầy xe, những nhà hàng sang trọng, cuộc sống vội vã, bon chen…
– Hai tuần qua, em không nhớ anh chút nào sao?
– Nhớ, nhớ lắm. Rồi bỗng nhiên biển chiếm hồn em.
– Sau đám cưới, anh sẽ đưa em về nơi có biển. Em mặc sức yêu biển.
Vinh luôn biết chiều nàng, nhưng lần này…
Một cơn gió mạnh thổi qua. Chiếc khăn trùm đầu của nàng bay xuống nước. Vinh lao theo. Khi lên bờ, bàn chân anh rướm máu. Oanh lấy khăn băng lại. Vinh gạt ra.
Nàng buồn rầu:
– Xưa có lần em đứt tay, anh băng bó, em đâu từ chối.
– Nhưng bây giờ… em không còn là người xưa.
Nàng thở dài:
– Đừng đẩy em ra xa. Hãy để em vui với biển. Ngày về lại Sài Gòn, em sẽ lại là người xưa của anh.
Vinh choàng tay qua vai nàng. Trái tim Oanh không mảy may đập nhanh như ngày nào…
Chín giờ sáng hôm sau.
Chiếc Tiểu vận đỉnh lại đưa họ ra khơi – lần này là Hòn Thơm, cách An Thới bốn cây số về phía Nam.
Như với Mũi Ông Đội, chiếc đỉnh vất vả luồn lách tiến vào bãi Trào, một dải cát trắng mịn như tơ, trải dài dưới hàng dừa cao rì rào trong gió. Ven bãi, vài chục căn nhà khang trang, ẩn hiện trong bóng dừa. Vài đứa bé chạy đến, lễ phép chào kính.
Tư lệnh Vùng là khách quen của đảo. Tổng Thống cũng từng viếng đảo này. Chúa đảo là một ngư dân vạm vỡ trung niên thân mật đón tiếp. Không ai cần mang theo gì. Tắm biển, ăn uống, nghỉ ngơi – mọi thứ đã được chuẩn bị.
Cả nhóm ào xuống biển. Nước trong và mát rượi. Cát mịn dưới chân như vuốt ve.
Vinh và Oanh lặn thật xa, qua những rạn san hô lộng lẫy. Có nơi như rừng nấm rơm – tầng tầng lớp lớp, lấp lánh, lung linh. Cá lớn nhỏ, đủ loại, đủ màu. Có nơi hàng chục con mực đứng lửng lơ, thư thái.
Bữa trưa không cơm, chỉ toàn hải sản: cá hấp, cua nướng, sò, tôm. Món nào cũng tuyệt ngon. Vinh vừa nhai vừa trêu ghẹo:
– Có phải đây là lý do khiến em yêu biển?
– Lý do phụ.
– Còn lý do chính?
– Một ngày nào đó, nếu thật sự là lý do chính, em sẽ nói cho anh hay.
Vinh nhăn mặt:
– Em khó hiểu quá.
– Em còn chưa hiểu em. Huống gì anh.
Ăn xong, họ nằm dài trên ghế vải, dưới bóng dừa. Biển trước mặt lặng như tờ. Chỉ nghe tiếng sóng lùa nhẹ vào cát.
Hai giờ chiều, Tư lệnh rủ mọi người băng rừng ra bãi Chướng, phía Tây đảo. Ông nhiệt tình giới thiệu:
– Ở đó có một nơi ngắm mặt trời lặn xuống biển, không đâu sánh bằng. Nếu các em đủ kiên nhẫn chờ…
Cả nhóm háo hức theo sau ông. Rừng mát rượi, hầu hết là lùm cây. Mùi đất, mùi lá khô quyện mùi biển thành loại hương lạ sảng khoái. Lối mòn lên dốc ít người đi nên đôi lúc gặp cành lá chắn ngang. Bù lại, hai bên rất nhiều hoa lạ. Những đóa hoa nho nhỏ, màu rất tươi. Có lùm toàn màu vàng, có lùm toàn màu đỏ, màu tím, màu xanh, đậm và lợt. Vinh ngắt thành một bó đẹp mắt tặng Như Oanh.
Khi xuống đến bãi có hình cánh cung, Tư lệnh chỉ tảng đá chênh vênh trên ghềnh cuối đảo:
– Tảng đá đó trông chênh vênh nhưng dễ leo. Anh chị đã hai lần lên đó ngồi ngắm hoàng hôn. Đẹp tuyệt vời. Khi mặt trời dần dần xuống, mây cũng dần dần đổi màu. Rồi cả vùng đa sắc rực rỡ tiễn biệt thái dương chìm khuất.
Như Oanh reo lên thích thú:
– Vậy thì hôm nay tụi em nhất định phải chờ xem.
Nhưng chưa đầy một giờ sau, một anh lính hối hả chạy đến báo Phòng Truyền Tin cần gặp Tư lệnh gấp. Tư lệnh lặng người. Rồi quay đầu, tất tả cùng anh lính trở lại bãi Trào.
Nhóm chúng tôi tiếp tục đi dọc bãi, đuổi theo vô số con còng, nhặt nhạnh những vỏ sò lạ mắt. Tội nghiệp Vinh, anh vẫn cố bước theo dù vết cắt ở chân bắt đầu đau, phải đi cà nhắc!
Nửa giờ sau, anh lính trở lại. Anh nhắn lời Tư lệnh là tất cả phải về ngay An Thới!
Trên đường về, Tư lệnh cho biết lý do: Ba của Vinh báo cho biết chuyến bay bị hủy bỏ. Vinh phải tìm cách về Sài Gòn bằng phương tiện sớm nhất.
Ngoài khơi dãy ponton cầu tàu, hàng trăm ngọn đèn câu chiếm trọn vùng biển. Ánh sáng lay động như những ngọn đuốc ma trơi, buồn lạ lùng.
Vinh bước khập khiễng ra cầu tàu. Chân anh bắt đầu đau nhiều hơn nhưng anh nhất định không đến bệnh xá. Như Oanh đi bên, nắm cánh tay Vinh. Gió hất tóc nàng về phía sau, lất phất như những ngón tay anh ngày nào vuốt nhẹ. Nàng mỉm cười, nhận ra một điều chắc chắn: nàng vẫn còn yêu Vinh.
Khi đến chiếc khinh tốc đỉnh, Vinh mở vòng tay. Khác với khi anh đến, nàng bước nhanh vào. Siết chặt. Anh mỉm cười, nàng mỉm cười. Họ hôn nhau.
Nàng nói, giọng buồn:
– Em chợt nhớ một câu trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư: “Ôi! Cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!” Thích câu đó lắm mà nào biết buồn ra sao. Bây giờ có phần thấm thía.
Vinh cười, giọng đùa xót xa:
– Em chỉ “có phần” nhưng anh thì “toàn phần”!
Rồi vội nhấc chiếc xách tay, cà nhắc bước lên tàu.
Tiếng rền của động cơ khinh tốc đỉnh không át được tiếng Vinh vọng đến:
– Cô giáo sư nhớ về nhận nhiệm sở. Đừng có… khùng!
Như Oanh đứng yên, mỉm cười nhìn theo. Con tàu lướt đi. Dòng nước cuộn lại sau đuôi, trắng xóa, rồi tan vào biển đêm.
(Còn tiếp)
- Đọc "Một Thời Oan Trái" của Phan Lạc Tiếp Vũ Thất Điểm sách
- Đời Thủy Thủ 2: Chương 6: Hải phận Khánh Hòa Vũ Thất Truyện dài
- Đời Thủy Thủ 2: Chương 5: Hải phận Khánh Hòa Vũ Thất Truyện dài
- Đời Thủy Thủ 3: Chương 4: Hình Như Là Đổi Thay Vũ Thất Truyện dài
- Đời Thủy Thủ 2: Chương 4: Hải phận Phú Yên Vũ Thất Truyện dài
- Ngôi Sao Sài Gòn Vũ Thất Truyện ngắn
- Đời Thủy Thủ 2: Chương 2: Hải phận Bình Định Vũ Thất Truyện dài
- Đời Thủy Thủ 2: Chương 3: Hải phận Bình Định Vũ Thất Truyện dài
- Biển Vẫn Dạt Dào Vũ Thất Truyện ngắn
- Đời Thủy Thủ 2: Chương 1: Vịnh Quy Nhơn Vũ Thất Truyện dài
• Vũ Thất (Học Xá)
• Cảm tưởng khi đọc truyện Đời Thủy Thủ 2 của Vũ Thất (Thuhuongseattle)
• Vũ Thất - Đời Thủy Thủ 2: Lời BẠT (Lương Thư Trung)
• Giới Thiệu Truyện Dài “Đời Thủy Thủ 2” Của Nhà Văn Vũ Thất (Trần Thị Nguyệt Mai)
• Vài Ghi Nhận Sau Khi Đọc Lại "Đời Thủy Thủ" Của Nhà Văn Vũ Thất (Lương Thư Trung)
- Cảm nghĩ về tác phẩm Đời Thủy Thủ 2 của nhà văn Vũ Thất (Vương Trùng Dương)
- Tâm tình giữa hai trầu và nhà văn vũ thất, tác giả truyện dài “đời thuỷ thủ” (Hai Trầu)
- Điểm sách “Đời thủy thủ” của Vũ Thất (Hoàng Lan Chi)
• Đọc "Một Thời Oan Trái" của Phan Lạc Tiếp
(Vũ Thất)
• Đời Thủy Thủ 2: Chương 6: Hải phận Khánh Hòa (Vũ Thất)
• Đời Thủy Thủ 2: Chương 5: Hải phận Khánh Hòa (Vũ Thất)
• Đời Thủy Thủ 3: Chương 4: Hình Như Là Đổi Thay (Vũ Thất)
• Đời Thủy Thủ 2: Chương 4: Hải phận Phú Yên (Vũ Thất)
- Chào mẹ
- Về Hưu
Bài viết trên mạng:
• Hoa Mimosa (Quang Già Cơ)
• Đỗ Ngọc Yến và Nhật Báo Người Việt (Phan Thanh Tâm)
• Đọc "Một Thời Oan Trái" của Phan Lạc Tiếp (Vũ Thất)
• Đời Thủy Thủ 2: Chương 6: Hải phận Khánh Hòa (Vũ Thất)
• Đời Thủy Thủ 2: Chương 5: Hải phận Khánh Hòa (Vũ Thất)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |