|
Lê Mộng Bảo(..1923 - 8.10.2007) | Trần Tuấn Kiệt(.0.1939 - 8.10.2019) | Đinh Tiến Mậu(.0.1935 - 8.10.2020) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà thơ Lê Mai Lĩnh
Trong khoảng thời gian chiến tranh bùng vỡ khốc liệt trên quê hương thân yêu, Trường Bộ Binh Thủ Đức được xem như điểm hẹn của tuổi trẻ lên đường “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Hầu như các nhà thơ nhà văn miền Nam đã từng có tác phẩm đăng trên tạp chí Bách Khoa, Văn, Văn Học, Khởi Hành... đều hiện diện trên các mặt trận bốn vùng chiến thuật. Ở khắp các chiến trường xa, trong mỗi phút giây là mỗi thách thức với định mệnh. Nhưng đối với người lính trẻ lúc nào cũng tỏ ra can trường, vẫn an nhiên tự tại, vẫn xem cái chết tựa như lông hồng có gì phải quan tâm lo sợ “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. (Sa trường say khướt cần chi? Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về) (Vương Hàn – Chi Điền dịch)
Xem cuộc chiến như trò chơi.
“Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”...
(Nguyễn Bắc Sơn)
Ngông nghênh bạt mạng coi đời như cỏ rác, biểu tượng thái độ tuổi trẻ lúc bấy giờ. Vô nghĩa, phi lý, cuộc chiến không có niềm tin ở tương lai trước âm mưu xâm lược thâm độc của kẻ thù Phương Bắc. Cuộc tử sinh bất ngờ đến độ người lính không còn cảm giác buồn vui. Ở mặt trận có thể thiếu nhiều thứ nhưng không thể nào thiếu thơ trong tâm hồn đã trót mang nghiệp vào thân. Chính nhờ cái thế giới thơ văn này, tôi đã quen biết và nhớ đến hầu hết các bằng hữu chung cùng thế hệ đầy những bất hạnh, trong giòng lịch sử thăng trầm u uẩn đó.
Trong những bằng hữu quen tên nhưng chưa bao giờ gặp mặt này, có nhà thơ Sương Biên Thùy (bút hiệu của Lê Mai Lĩnh), anh dùng vào những năm 1958 qua những tác phẩm của anh xuất hiện trên các tạp chí Văn Nghệ ở Sài Gòn.
Sau cuộc tang thương trầm thống, chúng tôi chẳng khác nào bầy chim trên giàn lửa, hốt hoảng bay lên tung cánh ra khắp phương trời để hít thở không khí tự do bát ngát tình người. Không ngờ nơi đất khách quê người, tôi gặp lại nhà thơ Sương Biên Thùy. Anh đã đến định cư ở thành phố Hartford thuộc tiểu bang Connecticut, Hoa Kỳ, và tiếp tục làm thơ, viết văn, làm báo sau nhiều năm nghiệt ngã đau thương tận cùng ở các trại tù Cộng Sản từ Nam ra Bắc: Trảng Lớn, Long Khánh, Long Giao, Hoàng Liên Sơn, Lao Kai, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Gia Rai... Cái khí khái của người lính ngày xưa vẫn còn lẫm liệt bất khuất trong máu huyết Lê Mai Lĩnh “Tất cả chúng ta đều là những kẻ chiến bại trước sự đói nghèo của nhân dân. Trước quê hương khổ đau, chúng ta đều có tội, dẫu khoác cho nhau màu áo nào. Trái tim, máu, nước mắt tôi đây ngày trở lại, sau 3102 ngày khổ sai trong 10 nhà tù Cộng Sản từ Nam ra Bắc, xin trao tặng quê hương và bạn bè...”.
Anh đã cố hết sức vắt óc moi tim, nhớ cho ra những tác phẩm sáng tác trong các trại tù, trong mọi tình huống khó khăn nguy hiểm, nhất là trong những giây phút bị dòm ngó theo dõi để tạo chứng cớ trả thù anh bằng những ngón đòn độc hiểm. Nhưng anh không bao giờ chết. Thi sĩ không bao giờ chết. Như Y Uyên, Bùi Giáng, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hoàng Sa, Phan Nhự Thức... Còn hơi thở là còn tiếp tục làm thơ. Cho dù bàn viết ở nơi viễn xứ không khác gì những nghiệt ngã đau xót về vật chất như ở quê nhà, nó cũng đầy dẫy những tra tấn tinh thần kẻ sĩ. Nhưng chúng ta vẫn hiên ngang lên đường vượt qua tất cả mọi khó khăn. Khi anh còn đang ở trong những trại tù CSVN, anh ngang ngạnh bướng bỉnh không cúi đầu khuất phục, chống đối chế độ đến cùng, anh đã từng bị kỷ luật Kiên Giam suốt 3 tháng ròng rã nhưng vẫn không dập tắt lửa trong hồn anh. Ngục tù đối với những người lính chiến kiên cường lẫm liệt, chẳng khác như trạm dừng chân, nhà chí sĩ Sào Nam Phan Bội Châu đã từng nói:
“Cũng là hào kiệt, cũng phong lưu,
chạy mỏi chân thì phải ở tù
Thân này vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm ngại ngùng chi”.
Khi nhà chí sĩ này bị bắt vào ngục thất ở Quảng Châu. Đến Cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh, khi bị quân Pháp bắt đày ải ngoài đảo Côn Lôn, Cụ đã nhận định: “Những kẻ vá trời khi lỡ bước. Nam nhi hà sá chuyện cỏn con”. Nhà thơ Lê Mai Lĩnh đã nuôi dũng khí miệt mài thầm lặng sáng tác và anh đã gom góp lại bằng trí nhớ hơn năm mươi bài thơ có lửa, có tình yêu và quê hương, giao cho nhà xuất bản Sông Thu chúng tôi lo chuyện in ấn phát hành. Cõi thơ Lê Mai Lĩnh có cái khí khái của Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Trần Dần, Nguyễn Chí Thiện...
...Cười, không thể được
Khóc, chẳng phải hay
Giận mình, đời hèn mọn
Bất lực và nhỏ nhoi
Trước trăm muôn buốt nhói
Giữa nỗi đau nhân quần
Đọc lại thơ Ức Trai
Soi rõ tài thao lược
Đời múa hát vung vươm
Dựng lên người tầm thước
Muôn năm sau sử sách còn ươm...
(Nguyễn Trãi)
Ra khỏi trại tù trên chuyến tàu cuối năm trở về mái ấm gia đình, Lê Mai Lĩnh không tỏ ra thái độ khiếp nhược sợ hãi, anh tự tin vào hồn thiêng sông núi, vào sự phẫn nộ của lòng dân đói khổ, và tự hứa với chính anh là phải tiếp tục con đường đấu tranh giành lại tự do dân chủ:
Chúng không giết được chúng ta
Sau ngày 30 tháng 4...
Chúng không giết được chúng ta
trong bóng tối
đói rét và sự lãng quên
Nơi núi rừng âm u Việt Bắc
Ta đã ra ánh sáng
ta đã về đất sống
Nhất định chúng ta phải thắng
Nhất định chúng ta phải thắng...
(Chuyến Tàu Cuối Năm)
Đọc thơ Lê Mai Lĩnh, chúng ta hình dung ra ngay quê hương Quảng Trị miền địa đầu giới tuyến, nơi anh đã sinh ra đời trong cái thời tiết đầy nghiệt ngã, khủng khiếp của mưa nắng Hạ Lào. Của truyền thống bà Mẹ Gio Linh cắn răng nuôi thù đi nhận đầu con giữa chợ. Nhớ lại những ngày tái chiếm Cổ Thành, Quân Đội VNCH được thế giới vinh danh... Giòng sông Thạch Hãn như ông đồ già trầm mặc chuyện thế sự nghìn năm đổi thay hưng phế... Nhưng tôi vẫn yêu Quảng Trị có Thánh Đường La Vang, có ngôi trường Nguyễn Hoàng với hai hàng cây phượng vỹ, yêu những nét nhạc đầy ắp âm hưởng nồng thắm quê hương của Hoàng Thi Thơ, và tiếng hát ngọt ngào trữ tình của Như Quỳnh...
Bên cạnh những bài thơ có lửa, chiếm đa số trong thi tập Thơ Lê Mai Lĩnh, chúng tôi tìm thấy cái thế giới nhẹ nhàng êm ả tình yêu lãng mạn, khá thơ mộng của anh.
... Em có biết
Một tối Đông Xuân người ta chôn anh
Huyệt, là nơi trái tim em ngự tọa
Và nhờ thế, anh phục sinh, sống lại...
... Anh hứa,
sẽ nổi gió cho diều em lên cao
cho tài năng,
nhan sắc em lên cao
Nhưng hãy ở lại mặt đất
cùng anh nghe em
trái tim nồng, hỡi người yêu dấu”.
(Anh Hứa)
Trong thơ, Lê Mai Lĩnh dùng nhiều từ ngữ rất hiện thực, thường tình như những mẫu đối thoại thân thương giữa hai người bạn, giữa hai người lính, thoạt nghe như khó chịu, nhưng ngẫm nghĩ cảm nhận được trọn vẹn cái tình thâm rất dễ thương, đại khái như: Ba người anh dữ dằn, tôi biết mình nhỏ con, trói gà không chặt, chơi bạo, chơi xa, cầm khẩu súng trong tay, nẩy cò, làm thơ, uống rượu... tự nhiên chơn chất không hoa hòe hoa sói điệu nghệ. Tuy nhiên, trong những cái tầm thường, đôi khi cũng cần thiết cho đời sống, nhất là khi chúng ta rời bỏ tất cả những cái tầm thường đầy kỷ niệm đó, để phải mỗi ngày nhìn ngắm những cảnh trí giả tạo chung quanh:
“...Những cảnh sửa sang tầm thường giả dối.
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng.
Giải nước đen giả suối chẳng thông dòng...
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm.
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu...”
(Hổ Nhớ Rừng của Thế Lữ)
Có thể hằng ngày chúng ta chạy đuổi theo đời sống ở miền đất quá mênh mông này, chưa quen, nên vẫn có cảm tưởng như thời gian qua quá nhanh, một thoáng đã hơn mười năm, hai mươi năm, giật mình tưởng chừng cuộc đời như bóng câu qua cửa sổ. Mỗi người đều tự lựa chọn cho chính mình một phương hướng nhân sinh phù hợp với tuổi đời. Càng “tri thiên mệnh”, càng cảm thấy cuộc tử sinh thật vô thường, chuyện đến đi nơi thế gian này cũng chỉ:
“nào ai tỉnh, nào ai say?
Chí ta, ta biết.
Lòng ta, ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ư?
Hồ thỉ. Hà tất, tiêu dao.
Cùng sầu với cỏ cây”
(Hồ Trường - Dương Bá Trạc)
Nhưng với nhà thơ Lê Mai Lĩnh thì lúc nào lửa cũng hừng hực trong tim. Có lần, tôi phỏng vấn anh trước khi anh dự tính cho xuất bản thi tập Lê Mai Lĩnh, chính anh đã thố lộ chí hướng phải đạt đến. “Tiền bạc không làm mình bất tử, nhưng tham gia vận động lịch sử làm mình sống mãi với thiên thu”. Anh đang đi theo con đường gai lửa của Nguyễn Trãi, khí khái của Nguyễn Thái Học (không thành công thì thành nhân)... và cầu mong anh sớm được toại nguyện.
Sống trong đời, ai cũng nuôi ước mơ, nếu không có ước mơ, chắc đời sống sẽ trở nên vô nghĩa. Người xưa đã bảo: “Thà thắp lên ngọn nến còn hơn ngồi nguyền rủa hoài trong bóng đêm”.
- Ba Dòng Thơ Tiêu Biểu Phương Đông: Thơ Thiền Việt Nam, Đường Thi Trung Hoa Và Haiku Của Nhật Thái Tú Hạp Nhận định
- Nắng Chiều Đã Ngừng Trôi Trên Thành Phố Los Angeles Thái Tú Hạp Hồi ức
- Lê Mai Lĩnh Trên Những Chặng Đường Gai Lửa Thái Tú Hạp Nhận định
- Đi Tìm Đường Bay Ưu Việt Của Thi Ca Thái Tú Hạp Nhận định
- Nguyên Sa - Thế giới của Tình yêu thơ mộng Thái Tú Hạp Tiểu luận
- Hoàng Thi Thơ: nửa thế kỷ dành cho tình yêu & quê hương Thái Tú Hạp Tạp bút
• Lê Mai Lĩnh Trên Những Chặng Đường Gai Lửa (Thái Tú Hạp)
- Từ Sương Biên Thùy đến Lê Mai Lĩnh (Phạm Tín An Ninh)
- Buổi Giới Thiệu Tập Thơ Lê Mai Lĩnh
- Đọc Thơ Tình Của Một Ông Già 72 Tuổi (T. Vấn)
- Lê Mai Lĩnh và bản tuyên ngôn thế kỷ: Sắn (T.Vấn)
- Về bạn tri âm: Thi văn sĩ Lê Mai Lĩnh (Nguyên Lạc)
- Đọc thơ tình Lê Mai Lĩnh (Châu Thạch)
- Giới thiệu tuyển tập Lê Mai Lĩnh (Minh Nguyệt)
- Uống rượu với Lê Mai Lĩnh (Kha Tiệm Ly)
- Sương Biên Thùy (Luân Hoán)
• Núi Tà Dôn và dấu chân Y Uyên (Lê Mai Lĩnh)
• Diễn Đàn Khởi Hành: "Mặc Cảm KaKi?"
(Lê Văn Chính)
• Nguyễn Bắc Sơn, Chút Tình Mang Xuống Mộ Chí (Lê Mai Lĩnh)
- Tôi và nhà văn Nguyễn Đình Toàn
- Trần Hoài Thư Tên Cowboy hai súng
Bài trên mạng:
• Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc (Vương Trùng Dương)
• Trịnh Y Thư: Những mối tình trong “Đường về thủy phủ” (Phan Tấn Hải)
• Đọc sách “Sài Gòn không phải ngày hôm qua” của Phúc Tiến (Nguyễn Văn Tuấn)
• Đọc “Cùng nhau đất trời” của Khánh Trường (Song Thao)
• Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Đỗ Anh Hoa)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |