|
Trúc Phương(.0.1939 - 18.9.1995) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà thơ Phương Tấn
Trong mơ hồ ký ức tôi hình dung dạo ấy; đầu thập niên sáu mươi của thế kỷ trước. Miền đất nước quanh tôi trăng vẫn còn xanh, rừng chưa đỏ lửa, tiếng bom đạn chưa tới độ kinh hoàng để có thể át tiếng gà gáy chim kêu, và lứa tuổi tôi chưa tới hồi chia lìa người một ngả. Tôi cậu bé mới lớn, tuy đôi khi vẫn tay xỏ túi quần soót-ka-ki, chân đi guốc mộc, quanh quẩn vùng quê đơn sơ với lũy tre xanh bên bờ sông Bồ mát rượi, nhưng lòng đã chớm se theo sợi tóc mai của thôn nữ làng trên, xóm dưới.
Đang lúc tâm hồn dường như “phơi phới còn nguyên vẹn một làn hương” giữa đất trời có vẻ “bốn phương phẳng lặng” ấy, thơ Phương Tấn bất chợt đến với tôi qua phụ trang một tạp chí do một người bạn lớn tuổi hơn mang từ Huế về. Vào đọc chỉ mới mấy dòng đầu tôi đã bồi hồi nhỏm dậy, ngẩn người trên chiếc phản gõ kê bên cửa sổ. Trong thời đại còn âm vang thơ tiền chiến phương Bắc lãng mạn điệu đàng, hoặc đang lan tỏa thơ phương Nam thiệt thà mộc mạc, giọng lục bát hay thất ngôn của Phương Tấn nghe sao mới mẻ mà thấm thía, cách điệu mà trầm lắng lạ thường:
Ngây ngô người vẫy tay chào
Đó hồn sầu muộn máu trào ra khe.
(Người Con Gái Giữa Biển, 1961)
hoặc:
Ngùn ngụt buồn xua lên mắt xanh
Mộ kia sầu đọng lá chia cành
Kìa trông tóc trắng nghìn đêm trắng
Hoa đã tàn, xuân cũng tàn canh.
(Hoa Đã Tàn, Xuân Cũng Tàn Canh, 1962)
Những bài thơ của Phương Tấn vào các năm đó đã dồi dào chất sáng tạo, đọng lại trong tôi thật sâu và đưa đẩy hồn tôi đi thật xa. Trong mắt nhìn của đông đảo bạn đọc và của nhiều người tuyển chọn thơ cho các tạp chí văn nghệ, Phương Tấn tuy mới xuất hiện nhưng đã có đầy đủ những dấu chỉ của một nhà thơ cách tân và tiên phong. Anh đi đầu một giai đoạn mới của lớp lớp thi nhân đồng trang lứa, đặc biệt các bạn thơ xứ Quảng Thu Bồn. Họ không đưa mắt lên ngắm trời ngoạn cảnh mà nhìn thật sâu vào nội tâm mình để bắt gặp ở đó tình yêu, thân phận của chính mình trên quê hương điêu linh, mạng người mong manh và lòng người phân rẽ. Thơ văn của họ vẽ phác được chân dung và nói lên được tâm tư của cả một thế hệ, trong đó có tôi, dù tôi sau anh chỉ một tuổi.
Nụ tài hoa và quả cuộc đời của Phương Tấn kết tinh từ rất sớm. Chưa qua tuổi thiếu niên, anh đã có những bài thơ “chín mọng" đăng trên các tờ báo lớn ở Sàigòn, như một cơ duyên đưa anh tới với người yêu thơ khắp Miền Nam (khi tôi còn lẹp kẹp hai chiếc guốc gỗ sầu đông!). Anh là con chim đầu đàn, với Tường Linh, từ vườn thơ xứ Quảng, cùng nhau cất tiếng kêu thắm thiết, đau đáu, độc lạ giữa đời, vang vọng khắp trường thơ đất nước; đôi khi tưởng chừng như chung một cung giọng nhưng nếu lắng nghe thật gần, sẽ nhận ra đường nét tinh tế riêng biệt của từng nhà thơ.
Làm sao một người mới mười bốn tuổi, non trẻ dường ấy, đã viết ra những dòng thơ “nghe ra ý vị và say mê” đến thế? Có thể xếp Phương Tấn đứng chung cụm tuổi đời sáng tạo với Cung Tiến, Nguyễ Bính, v.v... Họ sống và viết từ lúc nào, chẳng ai thật sự biết, chẳng ai thật sự hay, và chẳng ai cắt nghĩa nổi. Họ là thi sĩ, nhạc sĩ họa hiếm. Họ là những con chim rất non nhưng sớm và rất sớm đã “đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi”. Theo cách không giống người cõi phàm, họ gặp gỡ trần gian với giác quan khác, tâm hồn khác. Bằng một cách không bình thường, nếu chưa muốn nói là phi thường, họ bén nhạy tiếp nhận những đam mê, tục lụy, tân khổ của cuộc đời thường. Lẹ làng hơn, thấm thía hơn, rung động hơn, thế giới đầy truân chuyên và nặng nghĩa tình này chuyển thật nhanh, thật mơ màng từ con tim rất dễ thổn thức của họ đến bàn tay tài hoa vẩy nhanh ngọn bút với chữ nghĩa, hình ảnh, âm vận mượt mà khác thường.
Cứ thế, họ là loài chim vừa đậu xuống bến đời chưa được bao lâu, đã mê đắm hát ca, trôi nổi giữa dòng sông đời dào dạt sóng. Bản thân có vẻ như chưa tới điểm dậy thì mà họ đã trao tặng đời những bông hoa nở thắm, đẫm hương sắc. Có phải niềm hứng khởi, cây tài và tình của họ đã được ươm từ kiếp nào đó trước để bắt đầu viên thành trong kiếp này? Có phải tâm thức của họ, cái mà nhà Phật gọi là a-lại-da-thức đã pha trộn, cưu mang và hòa quyện với chúng sinh từ muôn kiếp để ẩn tàng, luân hồi và hiển lộ trong cuộc làm người này?
Nếu quả thật như thế, Phương Tấn tự nhiên là người mang thơ trong mình đi suốt đời mình. Và cứ thế, tinh anh của anh trong thơ anh sẽ còn mãi cho đến những đời sau, vì “thác (chỉ) là thể phách”. Bởi vậy tôi mới dám nói “Phương Tấn, thơ quá một đời người”. Đó cũng là những gì tôi may mắn bắt gặp trong tâm tư của Phương Tấn, sống mãi, thanh xuân rào rạt mãi với những ngóng trông cuộc đời:
“Và như pho tượng bên triền núi
Chờ đến thiên thu một bóng người
Chờ đến xuân già sông rã nhánh
Ô hay, mình cứ tuổi hai mươi.”
(Chờ Đến Thiên Thu Một Bóng Người, 2017)
Phương Tấn làm thơ suốt một đời. Có cải trang dưới diện mạo nào đi nữa. Có mưu sinh bằng cách nào đi nữa. Có chủ trương hay làm tổng biên tập loại báo nào đi nữa. Có ở yên một chỗ, trầm luân một cõi hay lưu vong tới phương trời nào đi nữa, Phương Tấn chỉ là một người thơ. Có hóa thân làm nữ nhân chốn bụi hồng hay viết thơ tình ở một đất nước xa lạ, làm người điên mơ say hay kẻ tỉnh cơn mộng dữ, Phương Tấn trước sau vẫn chỉ là nhà khắc họa cuộc đời bằng con chữ, hình ảnh, âm điệu để chúng bay lên thành các bài thơ ru lòng mình và để lại cho đời.
Theo chỗ tôi biết, tính đến nay, thơ Phương Tấn có thể lên tới cả ngàn bài. Gia tài thơ anh chất chứa hơn sáu chục năm, trải ra dưới đôi mắt của ít nhất ba bốn thế hệ độc giả. Trên dòng sông thơ mênh mông ấy, ta bắt gặp đủ thứ dấu vết của cả một đời người. Khởi đi từ nỗi đau côi cút tới khao khát yêu đương, từ đổ vỡ nát tan bởi chiến tranh tới điêu đứng vì vận nước đổi đời và lang bạt khắp chốn, những bài thơ khi đời khi đạo của Phương Tấn đạt tới mức không chỉ viết cho riêng anh mà còn viết chung cho cả một thế hệ cùng trang lứa với anh.
Thật thế, trong thơ Phương Tấn, tuy có thể thỉnh thoảng lại bắt gặp những hình ảnh, những âm thanh, những lối dùng chữ gây rất nhiều ấn tượng sáng tạo, làm ta như thở hụt đi một nhịp, nhưng người đọc có vô vàn dịp soi rọi bóng mình cùng với những cảm xúc của mỗi đời người trong sáu chục năm qua.
Một con chim cùi cũi
Giữa cơn mơ cháy rừng
Một con thuyền lầm lũi
Lụi hụi giữa đời sông.
Đứng trong trời mênh mông
Tôi nhỏ nhoi chiếc bóng
Thênh thang đôi cánh mộng
Vướng trên ngọn hư không.
Ai ngóng bên kia sông
Ai ngóng bên này sông
Một con thuyền mắc cạn
Một nỗi đau bềnh bồng.
(Nắng Hạn, 1975)
Và cho dẫu tới ngày Phương Tấn:
Khi nằm xuống và khi nằm xuống đó
Dăm bạn bè vỗ cánh lạ ăn đêm
Tay vuốt mắt một tay vòng lưng cỏ
Ván trên kia lần khép lại êm đềm.
(Hòa Bình Hòa Bình Đường Xa Lăng Lắc, 1964)
Vì anh vẫn sống tới các kiếp sau với những mộng mơ sôi nổi trong thơ mình:
Này anh em tôi ơi
Hãy đem rải mặt trời
Giữa ruộng vườn nứt nẻ
Hãy đem rải mặt trời
Lên mỗi lòng quạnh quẽ
Tay đã đầy tình thương
Hồn đã căng đầy gió
Hãy đem rải mặt trời
Việt Nam một ngày mới!
(Hãy Đem Rải Mặt Trời, 2019)
Như thế, tôi tin rằng Phương Tấn, nhà thơ tiên phong cách tân hơn sáu chục năm trước của xứ Quảng, nơi trùng trùng thi nhân phong vận từ cả trăm năm nay, hôm nay và về sau vẫn tiếp tục làm thơ. Trong anh, thơ đã bắt đầu từ kiếp nào, kết tụ ở kiếp này và kéo dài tới bao nhiêu kiếp nữa, trong viên thành của khổ đau, ân nghĩa và hy vọng của một cuộc làm người. Thơ Phương Tấn là tiếng lòng của một thế hệ đảo điên, bị bào mòn trong chiến chinh, và sau đó, chịu chung phần vô lượng não nề, xót xa, bi phẫn của người dân Việt suốt cả hai đầu đất nước.
Với Phương Tấn, thơ có hành lý là mơ đã đang và sẽ đi quá một đời, khiến đóa hoa lòng của anh tươi nở mãi cho cõi đời này thêm hương vị, thêm thắm đượm nghĩa tình nhân thế. Vì rốt cuộc, có lẽ cuộc đời rồi chỉ còn những vần thơ mang theo những giấc mơ nổi trôi bồng bềnh giữa các đổi thay, ảo hóa vi diệu, từ trong cốt tủy phi hình vô tướng cho tới mang mang vô biên vô tận hư không.
Nguyễn Ước
(Toronto ngày 7-7-2022)
- Phương Tấn: Thơ quá một đời người Nguyễn Ước Nhận định
- Nhà thơ Nguyễn Bính và "Tỉnh Giấc Chiêm Bao" Nguyễn Ước Nhận định
- Còn Nợ Một Thời Nguyễn Ước Tạp bút
• Phương Tấn: Thơ quá một đời người (Nguyễn Ước)
• Xúc động đọc "Thưa Mẹ" của Phương Tấn (Thiếu Khanh)
• Thơ Phương Tấn Là Đồng Vọng Những Đau Thương Của Dân Tộc (Nguyễn Lệ Uyên)
• Phương Tấn (Học Xá)
• Huế Của Phương, Một Phương Tình Viễn Mộng (Lê Văn Trung)
• Phương Tấn, Nàng Thơ Với “Di Bút Của Một Người Con Gái” (Vương Trùng Dương)
- Về một bài thơ tình của Phương Tấn (Lâm Anh)
- Đọc thơ Phương Tấn (Dung Thi Vân)
- Nhà thơ Phương Tấn: Hơn 40 năm bắc nhịp cầu văn hóa võ Việt (Văn Bảy)
• Xuân Thao (Phương Tấn)
• Hạ Đình Thao, Như Mới Bữa Hôm Qua (Phương Tấn)
• Vớt bình minh trong đêm (Phương Tấn)
• Trang Thơ Phương Tấn (Phương Tấn)
• Và Bước Một Bước Lạ (Phương Tấn)
- Nhớ ai buồn ngất trên vai áo
- Một bài thơ cũ: Nhà thơ Phương Tấn
Thơ trên mạng:
- art2all.net - saigonocean.com
• Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Đỗ Anh Hoa)
• Lữ Quỳnh, Bạn Tôi (Trần Hoài Thư)
• Nguyễn Thụy Đan: Những thác ghềnh ẩn mật (Nguyễn Minh Nữu)
• Nguyễn Minh Nữu (Nguyễn Vy Khanh)
• Nguyễn Thị Thanh Dương và Một Buổi Giới Thiệu Sách Thật Cảm Động (Chu Tất Tiến)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |