1. Head_

    Trần Đại Lộc

    (.0.1942 - 30.9.1997)
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Thi Phẩm "Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ" Ngợi Ca Tình Người Tình Đất (Luân Hoán) Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

      27-9-2025 | VĂN HỌC

      Thi Phẩm "Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ" Ngợi Ca Tình Người Tình Đất

        LUÂN HOÁN
      Share File.php Share File
          

       


      Cách đến năm năm, tôi mới có thêm một tập thơ chưng tủ sách, không dám nói là trình làng, bởi làng lúc này đã thật sự vắng khách đọc thơ. Lần này người chi phí khoản ấn loát là em trai tôi, Lê Hân.


      Sách in tại Toronto Canada, phát hành trong giới còn yêu thích sách báo.


      Tôi có thể xin bìa từ nhiều bạn họa sĩ quen biết, nhưng lần này tôi muốn tự tay trang trí cho nhanh gọn. Mấy ông họa sĩ ngon lành đều sinh sống tại Hoa Kỳ. Ngoài Đinh Cường và Khánh Trường ít ai sốt sắng đáp ứng lại sự nóng vội của tôi. Chủ đề chính của tập này nhẹ hều phần thơ dành cho em út tưởng tượng. Cái tình của tôi được phân phối cho thiên nhiên, cát đất cùng những người liên hệ, do đó tôi thực hiện bìa theo ý mình.


      Nền bìa tôi in đầy một bản đồ Việt Nam vẽ theo kiểu bản đồ hành quân, nhưng chưa hẳn mẫu bản đồ dùng để chấm tọa độ cho điểm đứng hoặc để gọi pháo binh. Sông núi nên ba màu xanh lá, xanh nước và vàng đất đều có đủ, hài hòa. Ở mặt trước in hai phác họa khuôn mặt tôi từ họa sĩ Đinh Cường và họa sĩ Trịnh Cung. Bản vẽ của anh Trịnh Cung, nhà văn Song Thao rất khoái, anh cho rằng chỉ vài nét nhưng nhận ra tôi ngay. Bản vẽ của Đinh Cường màu chụp lại tranh tôi đang treo phòng khách. Chữ tên sách tôi dùng nét đậm cũng màu xanh dương. Nhìn bìa là biết sản phẩm của tay ngang. Bìa sau vân núi trên bản đồ đẹp hơn, hồn núi non cũng hùng vĩ lên nhiều. Khuôn mặt tôi lớn chừng ngón tay cái, cắt sát nút thắt cà vạt. Đeo kính trắng, để ria mép, nhìn thoáng có vẻ phương phi, nếu em nào đa tình, lãng mạn cũng có thể chấm, nhìn qua chốc lát.


      Trong ruột chữ đen, giấy trắng in thoáng dòng rất ra tập thơ... bình thường. Quý nhất là những phụ bản của chỉ một người, một họa sĩ trẻ sinh hoạt văn học nghệ thuật cùng lớp trẻ tuổi hơn tôi nhiều. Tuy không làm phiền anh Đinh Cường điểm trang, nhưng anh cũng gởi cho tôi năm phác họa thật đẹp, chưa in đâu của con trai anh, họa sĩ Đinh Trường Chinh.


      Nội dung, không nhiều, gồm 71 bài thơ được tôi rất yêu thích. Mở đầu, bài tôi viết để nhớ ngày ra đi của thân mẫu tôi. Rằm Tháng Tư Âm Lịch:

      “nằm im dưới ánh trăng mù - nghe trong hương gió điệu ru đầu đời - lơ mơ thả gót rong chơi - gặp bàn tay mẹ xoa đầu, à ơi... = chùm ca dao trải xanh trời - chở tôi bay bổng một đời cùng thơ - lòng nôi lòng võng ngày thơ - lót bằng lòng mẹ bây giờ còn thơm = đời tôi chưa biết ổ rơm - chỉ ngấm hương ổ tình thơm mẫu từ - mẹ đi biệt giữa tháng tư - vầng trăng tròn lắm, hình như tròn hoài = tôi nhìn rõ lắm hai vai - mẹ xuôi trong chiếc quan tài bình an - nhớ như in, nhớ rõ ràng - tôi im lặng đứng cạnh bàn khói hương = tôi không là đứa bình thường - mắt không có lệ lòng vươn trần nhà - tôi đi tôi đứng như là - những cánh hoa huệ nở ra âm thầm = ngậm câu kinh Phật trong lòng - hóa ra tôi khóc bằng dòng khói hương - mẹ tôi chừ ở mười phương? - không đâu, mẹ vẫn ngồi đầu giường tôi = câu thơ tôi ngát tình đời - chỉ nhờ hơi ấm mẹ tôi thở vào - mẹ không biến thành ngôi sao - mẹ là tất cả dòng thơ tôi trồng = già nửa đời tôi lưu vong - rằm tháng tư vẫn chờ trăng xứ người - nằm im đắp ánh trăng mù - nguồn ca dao cũ từ từ mở ra”. (trang 5 -7)

      Như đã thưa ở trên, Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ nhẹ hều phần thơ cho các em tinh khôi sắc hương. Mời quý bạn đọc thử bài thứ hai trong tập, có đúng là tôi đã lơ bớt các em chưa:

      “chỉ cần chạm nhẹ vào ta

      là em có thể rút ra thơ tình

      sợi thơ vụn vặt linh tinh

      nhưng thừa sức để trói mình với nhau

      ...

      em là tất cả nguồn hương

      nằm trong những đốt xương sườn thi nhân

      ...

      trời sinh em trời sinh thơ

      nếu không chẳng biết phải thờ em đâu...”

      (Em và thơ 8-10)

      Dĩ nhiên đây mới chỉ mở đầu để kéo theo: Bệnh Rình Sắc Hương, Trăng Đêm Nở Hoa, Trên Đồi Cỏ, Một Thời Hò Hẹn Ngã Ba, Dặn Chừng, Đi Theo, Thiếu Nữ Trong Tranh, Nhớ, Gặp, Lót Tình Gối Tay, Hứa, Đứng Đợi Đèn Xanh, Lơ Mơ Trong Giấc Ngủ Ngày, Em Gái Con Người Dưng, Làm Thơ, Mùi Hương Từ Cái Vạt Giường, Thơ Tình Dán Ở Ngã Tư, Kỷ Niệm Gởi Một Con Đường, Cầu Ao, Tỏ Tình Tháng Chín, Biển Và Em, Thơ Tình Chao Đảo Tùy Thời, Những Cuộc Tình Có Thật, Xem Tướng, Yêu... 27 bài, chín nút, dành cho những người có “cái nhu mì” (chữ dùng của Bùi Giáng). Như thế tôi không nói xạo. Và trong 27 bài này, có 3 bài, nhạc sĩ Tuyền Linh (Nguyễn Văn Thơ) phổ nhạc (Em và Thơ, Kim Khánh hát – Hỏi Thật, Thái Hòa hát - Bệnh Rình Sắc Hương, Đào Nguyên hát).


      Đường Chữ Sau Lưng nhằm gom trọn ổ câu cú tôi không biết sợ súng chơi cả một đời, nên hy vọng chỉ cuốn này bạn đọc đại khái “nắm đủ” như một tuyển tập, nên tôi cố gắng trích dẫn.


      Trăng Đêm Nở Hoa: “em từ bụi chuối bước ra - ánh trăng làm nũng chao qua ống quần - niềm vui giấu dưới bàn chân - vỡ theo sợi gió lâng lâng ngậm ngùi - tóc tròng trành rối cơn vui - cõng dư hương phút rung người chuyển thơ - em từ cõi tuyệt vời nào - bước ra, khóc, dáng bước vào đã tan - đêm thơm vết xước dịu dàng...”.


      Trên Đồi Cỏ: “em ngồi trải cánh chân phơi = nắng thơm nghiêng một góc trời săm se = tôi ngồi đờ đẫn tay che = con-chim-thơ-đội-mộng xòe cánh bay = gió rình trong nách lá cây = hồ đồ rơi trúng mình dây em mềm = hoảng hồn, gió vãi hương lên - thanh xuân cỏ biếc hai bên tôi nằm = mon men tôi ướm tay thăm - vô tình vướng phải cái dằm nhớ nhung”.


      Một thời hò hẹn ngã ba: “... chở em, nhẵn mặt ngã ba – vài đuôi mắt liếc đâm ra ngại ngùng - ... chờ em thủ sẵn trong người - bài thơ mới viết còn tươi rói tình - chờ em xin phút rùng mình - cho bài thơ được hiển linh đời đời”.


      Lót tình gối tay: “dắt em vào bụi hoa lài - bẻ lá lót ổ nằm dài làm thơ - ngó lên gặp sợi nắng tơ - vạch thơm kẽ lá ngu ngơ ngắm tình – vài nhánh mây lấp ló nhìn – hai nhánh chân trái ấm mình cỏ thơm - tay theo ngọn bút lên dòng – thơ tỉa từng hạt vào lòng nguyệt thi – nghe trong khoảnh khắc xuân thì – ghé vai vạn vật chuyển đi nghìn trùng - lót tình dưới cánh tay xuân - cho nhan sắc thấm thơm lừng muôn năm - cảm ơn em ủ chỗ nằm - ổ thơ như vạt trăng rằm nõn hương”.


      Hứa: “vài ba năm nữa đi tu - tụng kinh giải thoát tên tù tà tâm – em từ bi mở cõi âm - lỏng tay thả cọng hương trầm vái theo – lòng trần tục chợt trong veo – quên sông quên lạch quên đèo quên mương - chỉ xin giữ được mùi hương - để làm tấm thảm mười phương phiêu bồng...”.


      Mùi Hương Từ Cái Vạt Giường: “xa lâu quá cái vạt giường thuở nọ - hương tre ngâm vẫn khắng khít ấp lưng - dòng kỷ niệm vẫn không ngừng lấp ló - mọc quanh tôi triệu con mắt thăm chừng = luồn dưới gối bàn tay tha thiết nhớ - chạm được gì dưới vuông chiếu trong tâm - đường mây cườm kết nẹp tre lên-nước - giữ hơi ai thuở nằm đợi phiêu bồng = nằm thật thẳng tự đo mình dài ngắn - thời gian làm dùn lại khối thịt da? - càng co cụm càng đụng vào dĩ vãng - mỗi nhánh vạt giường mỗi nhánh xương ta = vẫn nhắm mắt làm thơ sao vẫn nợ - sợi tình ai bỏ sót giữa bàn tay - em yêu dấu, trên vạt giường thuở nọ - em lỡ ươm một nhánh lông mày = em yêu dấu, trên giường tình thuở nọ - thơ chưa thành đủ bọc vóc em nghiêng - ngoài hồn đựng kịp thời đôi mắt liếc - và tiếng-tình em sảng khoái vô biên.”


      Thơ Tình Dán ở Ngã Tư: “cảm ơn phút cùng tình cờ ngó lại - đủ nuôi tình thơm ngát đến hôm nay - sóng bụi đỏ chập chùng sau xe-ngựa - tưởng như chừng vẫn vói nắm bàn tay = chừ ta ở rất xa nơi em sống - chừ em nằm rất sát giấc mơ ta - trong trời đất có vô vàn khoảng cách - trong tình yêu thương nhớ xóa chia xa = có buổi tối ta nằm nghe ta hát - nhìn ra em dối mẹ ghé qua nhà - có buổi sáng ta thèm đi xe đạp - nhớ chiều theo hương áo thở đôi tà = em có lượm giùm ta chùm gió mới - vừa thổi qua khe cửa sổ phòng em - nơi con muỗi than van xin giọt máu - nơi ta quỳ xin dâng tặng trái tim = em đã đốt giùm chưa bài thơ vụng? - tình cho em một thuở chạy nhật trình - lòng ta trải bao lần trên mặt báo - lặp lại hoài nhưng bảo đảm mới tinh = em cũng gói vừa xong nguồn kỷ niệm? - lót gối đầu hay chôn giữa ngã tư? - năm tiếp tháng người nối người qua lại - tình nhập thân cho đời biết tương tự = em chợt khóc như ngày xưa đó hả? - môi tìm môi tiễn giọt lệ qua đời - em đã cất ta sâu vào da thịt - sao nửa chừng cay đắng đánh rơi? = ta cứ hỏi... và thật thà nói dối - khi soi gương ta vẫn nhận ra em - sau em đã khá nhiều người ghé lại - cũng như thơ cứ phiêu giạt bồng bềnh = em nhớ nhé, ra ngã tư giùm nhé - xách guốc lên cho chân đất tìm vai - từ ngón biếc em đi thơ ở lại - mặc ta đành tiếp tục mất cả hai...”.


      Kỷ Niệm Một Con Đường: “chắc đôi lúc em tình cờ tưởng nhớ - con đường xanh thao thức lá vuốt ve - con đường thơm hương bụi gió cặp kè - theo bén gót hai bàn chân cánh vỗ = em vẫn giấu vụng về sau vạt áo - cục đường phèn hay nửa trái me chua - ngón tay ngon lấp ló cứ chực thưa - cho em mượn vòng lưng làm chỗ bám = đường đến lớp không bằng đường lãng đãng - hai chiều dài mỗi phút mỗi so le - môi thì thầm lòng lắng lòng nghe - thỉnh thoảng vỡ vài hạt cười e thẹn = vạt má ướt sau lưng chừng hực nắng - đốt rung rinh lớp vải áo trái anh - bánh xe chao, nón vãi tóc khỏi vành - toàn thân thể ngàn mũi hôn rụng kín = chẳng phải lần đầu sao hoài lính quýnh - ờ thì ra, trăm bận vẫn đầu tiên - bốn mươi năm, chỉ một phút vô biên - mừng và chúc em vẫn còn đôi lúc...”.

      Hồi còn sống vui, Nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng đọc Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ, có tán gẫu:

      “Gọi anh là thi sĩ của tình yêu - thi sĩ nào mà không làm thơ từ tiếng gọi của tình yêu? - không có gì ngạc nhiên, nhưng anh là một thi sĩ toàn phần cho tình yêu.


      Những thiếu nữ tràn ngập trên mỗi dòng thơ anh. Anh ấp ủ thiếu nữ trong trái tim mình đã đành, anh còn thấy thiếu nữ cả trong tranh của những họa sĩ bạn anh. Anh viết “Suối hoa, khe trúc ướp thơ mượt mà” trong tranh Đinh Cường, anh cảm nhận thiếu nữ trong tranh Hồ Thành Đức “chằng chịt những sợi gân”, anh nhìn ra những “búp gân tím, thỏi thịt hồng” của những cô gái trong nét vẽ Khánh Trường hay một vẻ đẹp trầm hương hư ảo [hình như em chẳng có xương] trong Nghiêu Đề, hay như Nguyên Khai mượn cái “thân thể ngựa phiêu bồng” đắp lên vóc dáng em. Luân Hoán không chỉ nhìn ngắm thiếu nữ trong tranh, mà anh còn ngợi ca họ, làm thơ tặng thiếu nữ ở mọi thời đại, bởi vì “em ở trong tôi, từ lâu lâu lắm... từ hồi chưa quen”


      Tuy vậy có lẽ những bài thơ Luân Hoán làm tôi ngây ngất là những câu thơ hiện thực của anh. Anh viết thơ anh khai sinh từ 'mùi hương cái vạt giường' thuở nọ, cái thời anh còn nằm trên chiếc giường tre ngâm, luồn dưới gối bàn tay tha thiết, và hơi thở, và thịt da, tự đo mình dài ngắn 'trên chiếc giường tình thuở nọ'.


      Thơ Luân Hoán ra đời vào những buổi tối, anh nằm nghe tiếng hát của chính anh, tiếng hát hân hoan chờ đợi vì nhìn thấy em nói dối mẹ lẻn qua nhà anh, và ái ân cuồng nhiệt như “em đã cất ta sâu vào da thịt” em.


      Thơ không chỉ là hư ảo, với Luân Hoán, thơ còn khai sinh từ mùi hương da thịt, từ hai bàn chân, từ ‘đờ đẫn’, 'rình mò' trong 'nách lá cây?', từ sự âu yếm “mon men tôi ướm tay thăm, vô tình vướng phải cái dằm nhớ nhung”, từ cái ống quần, từ cái vết xước dịu dàng của đêm thơm..


      Thơ Luân Hoán nở ra từ cái đầu có mái tóc dài nằm gối lên cánh tay anh, ngất ngây giữa ngày và đêm, và thịt da quyện vào nhau trong một trận mưa tình ái... Thơ của Luân Hoán, ôi sao mà sexy”

      (NXH - thơ khai sinh từ những gợi tình)

      Nhà thơ/văn Trần Huiền Ân thấy ra:

      "... Bà Huyện Thanh Quan tả bức tranh vẽ Đèo Ngang chứ không phải tả cảnh thực Đèo Ngang. Cảm nhận của ta đã bị cái “phong cách Thanh Quan” dẫn dắt từ cõi Thực sang cõi Mộng.


      Đọc mấy bài “Thiếu nữ trong tranh” của Luân Hoán thì ngược lại. Anh dẫn ta đi từ Mộng sang Thực. Từ Mộng, là vì những thiếu nữ mà Luân Hoán miêu tả đâu phải là người, khác với cả những nữ hồ ly, nữ yêu quái trong truyện Liêu Trai. Khi nói với độc giả phu nhân này là con chồn tu luyện bao nhiêu năm, tiểu thư nọ là con ma chết tự đời nào. Bồ Tùng Linh bảo rằng đó là phu nhân có thực, tiểu thư có thực, họ đang sống kiểu sống của họ, con chồn đã tu luyện thực, con ma đã từng chết thực. Vậy mà, khi đọc dù có yêu thích hay lo sợ ta cũng biết chắc đây là chuyện “nói láo mà chơi nghe láo chơi”. Trong lúc ấy Luân Hoán nói rõ những thiếu nữ kia chỉ là thiếu nữ trong tranh, họ hoàn toàn là Mộng được Luân Hoán tái tạo qua nét bút của sáu họa sĩ ai cũng nghe danh. Luân Hoán bảo: “Tôi tả con người trong tranh vẽ của Đinh Cường, Hồ Thành Đức, Khánh Trường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Thái Tuấn”, thế nhưng qua thơ ta thấy họ là nhân vật Thực, người Thực.


      Những nhân vật này có đủ hai phần Thể Xác và Linh Hồn...

      (T.H. Ân).

      Chủ đề tình đất, tình người chung chung chiếm nhiều trang. Theo bốn mùa của trời đất, tôi làm thơ. Xuân, hè, thu, đông có đủ, Với Xuân, nhà thơ Mạc Phương Đình lượm ra:

      áo cổ bẻ, quần dây treo

      chân đeo kiềng bạc, cổ đeo bùa vàng

      gỡ tay chị, chạy làng quàng

      chân phải, chân trái hai bàn vấp nhau

      (Mấy Thời Lững Thững Theo Xuân - Hội An, 1945)


      Để ghi lại cái hình ảnh chú bé 5 tuổi hiếu động, Luân Hoán chỉ cần một câu “chân phải, chân trái hai bàn vấp nhau” đơn giản mà vẫn đủ. Những gót chân mùa xuân như bay bổng:


      Cẩm Phô trộn nắng vào mây

      gió mùa xuân lót gót giầy tháng năm


      Rồi mùa xuân 49 theo cha mẹ tản cư lên vùng Tiên Châu, Tiên Phước, anh đón xuân với tuổi lên chín lên mười đã bắt đầu có cái nhìn xa hơn qua núi, qua rừng bằng những cảm nhận bóng bẩy hơn:


      chiều ba mươi, núi dặn rừng

      cành oằn lá ướt tạm ngừng trổ hoa

      gió giăng hơi đá thiết tha

      nhốt Tiên Châu giữa mượt mà mây rơi

      vò đầu gối, ngó khơi khơi


      "... mẹ chưa về tới đứng, ngồi ngó quanh”


      Chất hồn nhiên của tuổi thơ đã từ đó lan vào thơ Luân Hoán, trực giác của anh dường như cũng phát triển thật nhanh, thực khác thường để rồi với tuổi mười ba đã vượt lên tháng ngày, đột nhiên lòng rung động, những rung động không bình thường từ nụ cười của mẹ, từ nhịp rung đùi ngâm thơ của cha và ngay cả với hình ảnh con chim sẻ bất ngờ bay vào thềm trong ngày xuân nhật...

      (MPĐ - Mùa xuân và nét hồn nhiên...)

      Những đoạn thơ trên được Mạc Phương Đình trích trong bài Mấy thời lững thững theo xuân, gồm 9 đoạn cho các nơi các thời: Hội An 1945, Tiên Phước 1949, Hòa Đa 1953, Đà Nẵng 1960, Thủ Đức 1967, Quảng Ngãi 1969, Sài Gòn 1985, Montréal 1996 và với một đoạn tôi hy vọng sẽ ở Đà Nẵng nhưng chưa biết trước được năm nào. Bốn con số tên năm tôi mới dám ghi hai con là 2 và 0. thêm hai dấu chấm cùng dấu hỏi. Tám câu đó tôi đã viết:

      “xác nằm thơm cỗ quan tài

      mặc hồn thả bộ gặp ai cũng chào

      nơi này quả đẹp làm sao

      đất mát trời ấm nuôi thơ thành người

      và tôi nghiêm chỉnh gặp tôi

      gặp luôn em giữa đọt cười chớm xanh

      câu thơ một đời để dành

      mở ra, giản dị, loanh quanh thế này”

      (trang 57)

      Bây giờ đang là năm 2020. Tôi sẽ có con số nào sau hai số 20 để kết thúc một đời? Và thân xác có được về nơi cố quán?


      Thơ Xuân tiếp theo trong tập gồm các bài: Tình xuân lục bát, Xuân nhớ tết, Nhánh xuân xanh, Hương tết, Rước ông bà, Cùng xuân làm... thơ, (... dễ chừng mùa xuân với tôi – có hàng trăm đứa con rơi trong đời – nhìn từng sợi tuyết rong chơi – lòng xuân nên gặp xuân thôi, dễ dàng – vui tay dọn trống mặt bàn - rước em nằm xuống mơ màng với ta), Đêm xuân, Yêu em yêu mùa xuân.


      Viết về mùa Hạ chỉ có hai bài:

      Hạ Thi: “buồn tay vẽ bậy bụi cây - cây gì? không biết, lá đầy cành phơi - vuốt lòng bón mấy sợi hơi - bất ngờ cây nở tình tôi trĩu cành = vẽ thêm một chủ vàng anh - đứng nghiêng đầu hứng gió quanh quẩn về - và trong nắng lụa tứ bề - mùa hè phơi phới chỉnh tề bước ra - thế là hoa lẫn vào hoa – và tôi trẻ lẫn tôi già vươn vai – thấy đâu đây vạt áo dài - của ai vừa cởi móc ngoài hành lang – mùi hương thiếu nữ bay ngang - bụi cây tôi vẽ bàng hoàng hóa thơ - mắt nhìn thay ngón tay sờ - mà sao cứ chợt đụng vào chính tâm – mùa hè nhỏ nhẹ bước thầm – có cho tôi kịp giáp vào chiêm bao” (19-4-2000).

      Và Mùa hạ mưa Montréal.


      Mùa thu cũng không nhiều, chỉ: Ngọn thơ cuối thu, Thu tình em, Trung thu.


      Viết về nhân vật, tôi có bài nhắc đến Đynh Trầm Ca, Trần Dzạ Lữ, Hoàng Trọng Bân. Đôi bài tặng nhà thơ Triều Hoa Đại, Đám học sinh nam nữ Phan Châu Trinh Đà Nẵng, Vài nhà văn nữ không nêu tên, nhà văn Võ Phiến, hai anh bạn họ Trịnh. Tôi thích bài tặng Khắc Minh dưới tên bài Về Lại Những Địa Danh Nằm Lòng, toàn bài:

      Về Lại Những Địa Danh Nằm Lòng: “đêm qua tôi mới về Quảng Ngãi - hái trái mù u ở Nghĩa Hành - gió từ Mộ Đức vây tôi lại - rờ rẫm thăm từng gốc tóc xanh


      tôi gặp bàn tay ai rất mềm - xâu từng chùm nắng xách hai bên - thân thương với níu tôi dừng lại - xối rửa đôi lòng mắt trót quên


      tôi gặp đôi môi ai rất nồng - như tuồng vét hết nước trong sông - thiết tha mớm hết hương Trà Khúc - cho trái tim già lại trổ bông


      tôi gặp mồ hôi ai rất hồng - trải thơm từng múi thịt da non - tấm lòng Đức Hải hay Sông Vệ - Quán Lát theo về đến Cửa Đông?


      tôi gặp tôi qua núi với rừng - Trà Bồng Thạch Bích cõng trên lưng - đêm qua tôi mới về Quảng Ngãi - một đoạn chân lìa xưa đến thăm”.

      Trong SNCNTNT, cũng được đi một bài có tính cách hồi ký, Những Năm Đầu Với Đất Sông Hàn, bài thơ vui vui nhưng trung thực với hình ảnh sự việc cũ:

      “nhập cư vào xã Phước Ninh - sát rìa nghĩa địa u minh hiên người - hồn, thân chung đụng giọng cười - tiếng la câu chửi ngược xuôi bềnh bồng - lần đầu đời, thấy chùm bông - thơm trên thánh-địa đàn ông tôn thờ - cũng lần đầu được nằm mơ - thấy con cu-đất phất phơ đứng gù =


      cõng đồ qua ngụ xóm tu - mõ chuông Tĩnh Hội hồ như vậy rào - ra đường đụng tiếng nam mô - lên giường đắp chiếu nghe Bồ Tát kêu - trong đầu, trong bụng: trong veo - tóc-đen-sợi-quắn bay vèo đã xa - tò mò, quen thói lân la - xem tướng chư Phật trên tòa sen chơi - mấy ngài tuy có khác tôi - nhưng chắc có chỗ giống y tôi là =


      bỗng dời ra tuốt xóm Ga - thăm đường sắt thử xa cỡ nào - chân trời trong giấc chiêm bao - phủi tay tạm gửi mộng vào hư không - quay lưng ra biển đuổi còng - vấp đàn nghêu-trắng im hong nắng trời - cột buồm đội vải... ra khơi - giở mũ cối đội hương đời chênh vênh =


      lại về đóng chốt sát bên - mặt sân vận động mông mênh cỏ gà - mười lăm tuổi ngấm hương hoa - lòng phơi phới bám con ma vật vờ: - câu dài, câu ngắn vu vơ - trắc, bình nhào nặn guồng tơ trong lòng - chiều chiều ma dẫn ra sông - chờ xem rùa-nổi gió lồng lộn bay - những con-rùa-thánh-thần này - cùng con ma tiếp tục đày đọa tôi”.

      25-8-1999

      Cuối tập, một bài viết khá buồn, lưu giữ những tình cảm và hình ảnh khi tôi phải nằm viện. Bệnh viện lớn này nằm trên núi Mont Royal.

      Viết Trong Đầu Tại Hôpital Général De Montréal Ngày Giáp Tết Nhâm Ngọ (lì xì năm con Ngựa cho Lý)


      “bao nhiêu hạt tuyết trong dòng tuyết? - tuyết trắng trời kia có mấy dòng? - khí lạnh khởi từ tinh thể tuyết - có buốt bằng thơ chết trong lòng?


      thơ đã tắt rồi? thơ đã chết? - máu chừng chảy vội để lạc thơ - ta nghe đâu đó trong da thịt - khởi kết vòng hoa, dựng nấm mồ


      đời lỡ sống với những trò vô ích - làm chi hơn khi dòng máu đầy thơ? - trang chữ viết đâu để dùng đắp mặt - giọt bụi ta đọng được giữa hư vô?


      nhìn em đứng thất thần trong lo lắng - xốn như gai ai chích khắp thân mình - không dám nghĩ ngày mai em ở lại - nuốt hương trầm, lặng lẽ giữa tràng kinh


      em yếu đuối em thiệt thà em vụng dại - một đời giàu nhân nghĩa với yêu thương - thân mòn mỏi sẽ cõng đời còn lại - một mình đi cho hết những đoạn trường


      em gắng nhé, em yêu, đường còn lại - ta hình dung, ta tưởng tượng, rõ như là... - gắng đốt hết vết đời ta sót lại - thương chính mình là em đã nhớ ta


      em gắng nhé, bước ngoan đường còn lại - thời nhiễm trùng-thơ rồi sẽ phôi phai - một lát nữa hay mốt mai... đâu biết - lặng nhìn em vừa lội tuyết ra ngoài


      thơ đuối sức nhưng lòng bay theo tuyết - em về lo khăn áo để mang vô.. - vẫn để tình ở lại hồi sinh thơ - sẽ vì em gắng sống đến bao giờ...".

      Tập thơ 130 trang, trang không đánh số mở tập ghi hai câu :


      tham lam tôi nhốt vào trong ngực

      sông núi cùng người thơm ngát thơ


      Đọc lại cảm thấy buồn buồn.


      Luân Hoán

      Nguồn: Ngôn Ngữ số 39 1/9 2025
      Tạp Chí Văn Học Nghệ Thuật

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Thi Phẩm "Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ" Ngợi Ca Tình Người Tình Đất Luân Hoán Bút ký

      - Tưởng Năng Tiến Luân Hoán Tâm bút

      - Chu Vương Miện, Thơ Với Cuộc Chơi Loanh Quanh Giữa Chợ Luân Hoán Nhận định

      - Hà Nguyên Thạch Còn “ngại hồn bay”? Luân Hoán Hồi ức

      - Nguyễn Đông Ngạc, ngọn pipe chợt tắt trên môi Luân Hoán Hồi ký

      - Ngôn Ngữ, Tin Cuối Trước Khi In Luân Hoán Giới thiệu

      - Ngôn Ngữ, Tin Đầu Tiên Luân Hoán Giới thiệu

      - Tạp Chí Trước Mặt Luân Hoán Tạp bút

    3. Bài viết về nhà thơ Luân Hoán (Học Xá) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Bài viết về Luân Hoán

        Cùng Tác Giả (Link-1)

      Tình già nhà thơ xứ Quảng (Nguyễn Văn Nhân)

      Luân Hoán, một người thơ, một đời thơ (Phạm Hiền Mây)

      Luân Hoán (Học Xá)

      Luân Hoán (Võ Phiến)

      Chân dung thơ Luân Hoán (luanhoan.net)

      Luân Hoán, Một Đời Thơ

      Đọc Nhịp Thở Luân Hoán

       

      Tác phẩm

       

      Thi Phẩm "Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ" Ngợi Ca Tình Người Tình Đất (Luân Hoán)

      Thơ Lê Hân Từ Nguồn Nhạc Tình Ca (Hà Khánh Quân)

      Tưởng Năng Tiến (Luân Hoán)

      Võ Phiến, cuối cùng tôi được gặp

      (saigontimesusa.com)

      Vuông chiếu Luân Hoán

      Thi Phẩm đã xuất bản

      Trang thơ Luân Hoán:

      - Linh Tinh Thơ Tình

      - Theo Người Theo Đời

      - Thơ Luân Hoán thời 70+

      - Trích thơ Luân Hoán đã xuất bản

       

      Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Ngẫm mà hổ thẹn với “Chân dung 99 nhà văn đương đại” của Nguyễn Khôi (Lê Mai)

      Thi Phẩm "Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ" Ngợi Ca Tình Người Tình Đất (Luân Hoán)

      Đọc lại “Chương Dân Thi Thoại” của Phan Khôi (Nguyễn Khôi)

      Mơ Quê Trong "Xóm Cỏ" của Nguyễn Khôi (Đặng Xuân Xuyến)

      Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử (Đoàn Xuân Thu)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học Miền Nam (Học Xá) Văn Học (Học Xá)

       

      Tác Giả

       

      Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)

        Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)

        Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)

        Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)

      Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)

        Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)

      Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)

      Dương Quảng Hàm (Viên Linh)

      Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)

      Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)

        Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

      Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)

      Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)

      Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)

      Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn

      Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)

      Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)

      Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)

      Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)

      Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)

      Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh

       (Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)

      Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)

      Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn

      Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)

      Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An

      Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)

      Danh Mục Tác Giả: Cùng Chỉ Số (Link-2) An Khê,  Andrew Lâm,  Andrew X. Phạm,  Au Thị Phục An,  Bà Bút Trà,  Bà Tùng Long,  Bắc Phong,  Bàng Bá Lân,  Bảo Vân,  Bích Huyền,  Bích Khê,  Bình Nguyên Lộc,  Bùi Bảo Trúc,  Bùi Bích Hà,  Bùi Giáng,  

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)