03-01-2013 | THƠ
Quá Phong Khê, Một Bài Thơ Kỳ Tuyệt
VÔ NGÃ
Có một bài thơ Việt thế kỷ XIV, 'QUÁ PHONG KHÊ,' sách của Viện Văn Học
Hà Nội viết là tả Hai Bà Trưng, theo chúng tôi là tả Mã Viện. Đây là một bài thơ
kỳ tuyệt: Vịnh Sử, chê tướng giặc mà không dùng đến một lời miệt thị.
Trần Lôi, một nhà thơ sống vào thời
Trần Nghệ Tông, [1321-1395] khi đi qua
kinh đô cũ của Hai Bà đã hoài cảm, viết
ra bài Quá Phong Khê. Trong sáu trăm
năm, bài đó chìm vào trong số bốn trăm
bài mà các nhà khảo cứu đã sưu tầm lại
được sau chiến dịch huỷ diệt nền văn
hoá Việt bởi nhà Minh. Bài thơ chỉ có hai
mươi chữ, ngôn từ bình dị nên không
được ai đặc biệt chú ý.
Bài thơ ấy như sau:
phiên âm:
QUÁ PHONG KHÊ 1
Lãng Bạc ta diên truỵ,
Phong Khê trúc Kiển Thành.
Nhất thời cân quắc trận,
Đẩu nhĩ 2 lập công danh.
Trần Lôi
dịch ý:
Lãng Bạc than diều hâu rớt,
Phong Khê đắp thành tổ kén.
Một thời, trận khăn yếm,
Thình lình lập công danh như thế.
Tuấn Nghi, Phạm Đức Duật trong
nhóm biên soạn cuốn Thơ Văn Lý Trần,
thuộc Viện Văn Học Hà Nội, đã dịch
nghĩa như sau:
Trông hồ Lãng Bạc than thở rơi diều,
Ở đất Phong Khê xây đắp thành Kén.
Đội quân khăn yếm một thời,
Lập nên công danh vang dội.
Thơ dịch nghiêm chỉnh, xuông xẻ, đặc
biệt là hai câu đầu dịch nguyên văn
nguyên tác. Nhưng bản dịch có phản ảnh
đúng ý của tác giả không, đó là điều ta
thắc mắc, vì khi đọc nguyên tác, ta đã
cảm thấy bài thơ tuy đơn giản nhưng vẫn
có một cái gì là lạ trong đó. Mục đích
của bài nghiên cứu này tìm hiểu cảm
giác đó có căn cứ hay không.
Để cho việc nghiên cứu được hoàn
chỉnh, cũng cần nói thêm về tác giả, bối
cảnh cũng như cần xác định vị trí của bài
thơ trong kho tàng văn học cổ.
Về tác giả: Vì sách vở đã bị quân Tầu
huỷ hoại, nên không còn tài liệu nào nói
về quê quán, thân thế, năm sinh, năm
mất của tác giả Trần Lôi, cũng như sự
nghiệp ra sao. Chỉ biết đại khái là ông
sống vào cuối đời Trần. Tác phẩm chỉ
còn lại bài thơ Quá Phong Khê.
Bối cảnh: Phong Khê là nơi Hai Bà
đóng đô trong bốn năm. Sau khi nước
sụp đổ, thị trấn này cũng tiêu tan. Nên
khi tác giả đi qua, nơi đây chỉ còn gò
đống. Dấu vết thành Tổ Kén của giặc
Mã là mấy đống đất. Cảnh vật tang
thương gây ra mối cảm hoài. Cảm hoài
cái gì, cái gì tang thương, sau khi suy
nghĩ kỹ ta sẽ nắm được đầu mối và hiểu
bài thơ hơn.
Vị trí đặc biệt của bài thơ
Kho tàng thơ Lê-Lý-Trần có một mảng
trống là thơ hoài cổ và thơ vịnh sử, nhất là
về thời đại thật xa xưa. Cho nên nếu có
một bài thơ về thời gian này, đúng lý ra,
nó phải được người ta đặc biệt chú ý,
không khác chi dòng chữ viết trên một
bức tường trơ trụi làm ai nấy cũng phải
đứng lại nhìn. Nhưng sự việc không xảy
ra như vậy, chỉ vì bài thơ quá phẳng lặng,
nên nó đã bị chìm vào trong số bốn trăm
bài thơ khác, đa số có cảm tính sôi nổi hơn.
Nhưng vì chúng ta nhìn sự việc bằng
con mắt mới, bài Quá Phong Khê, tuy chỉ
có 20 chữ, đã nổi bật lên trong sự trống
vắng của loại thơ hoài cổ, nhất là hoài cổ
về những ngày đầy máu và nước mắt của
buổi đầu chống Bắc xâm.
Đọc kỹ, ta nhận thấy bài thơ tự nó
cũng khác hẳn những bài cổ thi ta đã đọc
từ trước tới nay. Nó gây nhiều thắc mắc:
1. Đây là thơ gì vậy, hoài cổ hay vịnh sử?
2. Nhân vật bị ám chỉ trong thơ là ai,
người cứu quốc Việt hay tướng giặc Tầu?
3. Ý nghĩa của bài thơ là gì?
Và câu hỏi quan trọng hơn hết, về
phương diện văn chương là:
4. Bài thơ hay hay dở?
Những câu hỏi rất bình thường nhưng
trả lời cho xưông xẻ không phải là việc
đơn giản.
1. Thơ hoài cổ hay thơ vịnh sử?
Hoài cổ là xúc động khi nhớ chuyện
xưa, vịnh sử là làm thơ về nhân vật và
chuyện lịch sử. Hai bên giống nhau ở
chỗ có thể cùng nói về một đề tài, nhưng
khác nhau ở chỗ thơ cảm hoài thì tình
cảm sôi nổi, còn thơ vịnh sử thì tình cảm
hời hợt. Lý do là người làm thơ hoài cổ
nhìn thấy cảnh trước mắt nên xúc động
mà làm thơ, nên tình cảm sôi nổi, còn
người vịnh sử thì phải tưởng tượng ra sự
việc mới rung cảm, nên thơ vịnh sử có
phần nhạt nhẽo hơn.
Trở về bài Quá Phong Khê. Tác giả đi
qua Phong Khê là nơi ngàn năm trước
hai Bà dựng kinh đô, chỉ thấy gò đống
hoang vu nên cảm khái làm thơ. Như
vậy, Quá Phong Khê là một bài thơ hoài
cổ, thế nhưng trong thơ lại không có một
lời cảm thán. Câu 1-2-3 chỉ ghi lại sự
kiện một cách lạnh lùng:
1 Lãng Bạc ta diên truy;
2. Phong Khê trúc Kiển Thành.
3. Nhất thời, cân quắc trận,
Câu kết lời lẽ lại càng thờ ơ:
4. Đẩu nhĩ lập công danh!
(nhanh chóng lập công danh như thế đấy)
Thơ hoài cổ gì mà lời lẽ lạnh lùng,
làm như tác giả không phải là con cháu
hai Bà. Nhưng đọc kỹ, ta sẽ thấy không
phải như thế. Tác giả đã ẩn giấu tình cảm
của mình sau hàng chữ, phải đọc kỹ mới
nhận ra. Chìa khoá nằm ở câu kết:
4. Đẩu nhĩ lập công danh
Phải chăng đây là một lời khen?
Nhưng KHEN AI? Khen hai Bà?
Nếu đúng thế thì cách phát biểu quá
phi lễ không thể chấp nhận, vì hai lý do:
Một là đối với Bậc Đệ Nhất anh hùng
cứu nước và dựng nước mà nói đến
chuyện lập công danh lá quá coi thường
vị ấy. Hai là nói về người mà ai nấy tôn
thờ như bậc Tổ Mẫu mà cứ nói trống
không thì tội bất kính lại càng nặng. Nhà
Nho trọng lễ nghĩa nên quyết không có
chuyện phi lễ. Vậy:
2. Nhân vật trong bài thơ là ai: Hai Bà hay tướng giặc Mã Viện?
Nếu nhân vật ám chỉ đến trong bài thơ
không phải là hai Bà thì là Ai, không nhẽ
là tên tướng giặc Mã Viện?
- Đúng đấy! Đúng là Mã Viện.
- Vô lý! Thế tại sao nhà thơ lại nức nở
khen: Đẩu nhĩ lập công danh! (Lập công
danh nhanh chóng như thế đấy!)
- Sai! Nói như vậy là sai: đó là câu nói
mỉa chứ đâu phải lời khen!
Chuyện này lát nữa ta sẽ trở lại, bây
giờ ta hãy chứng minh là nhân vật ám chỉ
tới trong thơ đích thị là tên cướp nước.
Chứng minh bằng bối cảnh:
Bối cảnh bài thơ chính là Phong Khê,
nơi chỉ còn mấp mô gò đống. Nhìn thấy
cảnh tang thương, nhà thơ cảm hoài.
Cảnh tang thương? Có phải là cảnh một
đô thị biến thành gò đống? Không phải:
Phong Khê chưa từng là một phố thị
phồn hoa, có lẽ nó chỉ là một làng, lớn
hơn các làng khác một chút. Hai Bà đã
đóng đô ở đó bốn năm, một thời gian chỉ
đủ để dựng lên mấy căn nhà gỗ dùng
làm chỗ thiết triều. Vậy có cái gì đã gợi
cảnh tang thương? Đó là thành bầu dục
do Mã Viện sai đắp quanh Phong Khê.
Chỉ có Kiển Thành là kiến trúc to lớn
nhất, bền vững nhất, và sau khi sụp đổ
cũng còn để lại một cái, đó là dẫy gò
đống mấp mô. Cho nên trước cảnh thành
luỹ hoang tàn, nhà thơ nghĩ tới, không
phải là Hai Bà, mà là tên tướng giặc đã
một thời gọi gió thét mưa.
Lý luận ở trên căn cứ vào trực giác
hơn là vào thuần lý nên ít có tính chất
thuyết phục, vậy chúng ta sẽ chứng minh
lập luận của ta bằng qui luật.
Chứng minh bằng qui luật:
Qui luật nói ở đây là luật cấu trúc của
Đường thi. Theo luật này, một bài tứ
tuyệt sẽ gồm có bốn câu là: khởi [phá],
thừa, chuyển và hợp [kết]., mỗi câu có
một chức năng rõ rệt.
Khởi là mở đầu, có thể ví với cái nụ
hoa mới nhú nhưng sẽ phát triển thành
một đoá hoa hoàn chỉnh với đủ cánh, đài,
nhuỵ hoa. Thừa là khai triển ý niệm đề
ra trong câu khởi. Chuyển là sự chuyển
hướng của tư tưởng làm cho sự suy tư sâu
rộng thêm. Hợp là thâu tóm các tư tưởng
đã trình bầy vào một câu để đóng câu
chuyện lại, tức là kết. Như vậy tư duy đã
phát triển như dòng nước, chảy từ nguồn,
mở rộng thành sông rồi kết thúc trong
biển cả. Dù chảy quanh co, thu gọn hay
mở rộng, dòng nước vẫn là một, cũng
như bài thơ, từ đầu chí cuối cũng chỉ nói
về một đề tài.

Lãng Bạc, tức hồ Lãng Bạc trong câu thơ Lãng Bạc ta diên trụy (nơi hồ Lãng Bạc, [Mã Viện]
than [khí độc bốc lên,] diều ó phải rớt.) Hồ rộng trên 500 héc ta, trong truyện Hồ Tinh (Lĩnh
Nam Chích quái) hồ có tên là Thi-Hồ-trạch, nơi Long Quân dâng nước giết chết con cáo
chín đuôi hãm hại dân lành trong vùng. Hồ cũng có tên là Hồ Trâu Vàng. nơi con trâu bên
Tầu nghe tiếng chuông đồng đen bên hồ, tưởng là mẹ gọi, đã chạy qua tìm, vùng vẫy khiến
hồ thêm rộng. Thể kỷ XI hồ có tên Dâm Đàm (hồ sương mù). Thế kỷ XV có tên Hồ Tây,
tức là tên còn giữ tới ngày nay. Đây chính là nơi diễn ra nhiều trận đánh giữa quân Hai Bà
và quân Mã Viện. (Chú thích của Hồ Tùng Nghiệp).
Bây giờ ta hãy đọc lại bài thơ.
1. Lãng Bạc ta diên truỵ
(Lãng Bạc than diều rớt)
- Ai than? Mã Viện than. Khi thấy
chiến cuộc không xuông xẻ, Mã Viện
liền báo cáo với triều đình là nước ta sơn
lam chướng khí độc quá, đến chim đang
bay trên trời mà cũng rớt xuống đất chết
tốt! Như vậy khởi đề đã đề cập tới một
viên tướng với cái tài nói khoác vô song
là Phục ba Tướng quân.
2. Phong Khê trúc Kiển Thành
(Phong Khê đắp thành 'tổ kén'
Ai đắp thành? Mã Viện đắp thành.
Câu thừa đã đào sâu ý do câu khởi đưa
ra (Sự nghiệp của y là xây Kiển thành).
Như vậy, chủ đề của bài thơ lại rõ thêm
chút nữa: Mã Viện.
3. Nhất thời cân quắc trận
- Câu chuyển trình bầy một sự kiện
lịch sử, đưa tư tưởng sang một chiều
hướng mới (đánh nhau với đoàn quân
khăn yếm).
Theo Đường luật thì bốn câu: Khởi,
thừa, chuyển, hợp phải thống nhất về
chủ đề, nên nếu chủ đề do câu 1 đưa ra
là Mã Viện thì đương nhiên chủ đề của
câu 2, câu 3, câu 4 cũng phải là Mã Viện.
Vậy câu 3 phải hiểu là: đã có một thời, y
phải đánh nhau với đoàn quân khăn yếm.
4. Đẩu nhĩ lập công danh
(Thình lình lập công danh như thế.)
Ai lập công danh?
Nhóm biên soạn Viện Văn Học nhận
định đó là hai bà Trưng. Nhưng chúng ta
quan niệm ngược lại, đó là Mã Viện, vì
lý do thống nhất chủ đề như đã nói ở
trên. Ngoài ra, vì ý nghĩa tiềm ẩn trong
các từ công danh và đẩu nhĩ.
a. Hai chữ công danh dùng cho những
kẻ ngu phu như Mã Viện cố ngoi lên
trong đám quan trường nhà Hán thì
được, nhưng nếu dùng cho các vị anh
hùng xả thân vì đại nghĩa thì đó là sỉ nhục
họ. Nếu nói về việc làm của hai Bà thì
danh từ thích hợp để gọi sẽ là: sự
nghiệp, sứ mệnh, đại nghiệp...
b. Mặt khác, cuộc khởi nghĩa của hai
Bà thất bại, trong khi chữ lập công danh
lại có ý nghĩa là thành công.
c. Đẩu nhĩ (nhanh chóng như vậy) -
Từ ngữ này cũng không thích hợp với
hai Bà. Nghĩa quân phải tử chiến với
quân giặc hàng tháng, hàng năm thì thời
gjan dài vô cùng. Cho nên chữ đẩu nhĩ
dùng cho Mã Viện thì đúng mà dùng cho
hai Bà thì sai.
Không những thế, chữ nhĩ còn có
nghĩa là mày nên cụm từ 'đẩu nhĩ lập
công danh' còn có thể hiểu là 'mày đã
nhanh chóng lập công danh.' Câu nói
đầy sự mỉa mai.
3. Ý nghĩa đích thực của bài thơ
Cái làm ta lạc lối chính là câu 3:
Nhất thời cân quắc trận
Hiểu sai câu này thực ra cũng không
có gì là lạ; lý do thứ nhất, ý nghĩa của
chữ thời và chữ trận quá rộng; lý do thứ
hai là cấu trúc câu 3 quá mơ hồ, nên có
thể hiểu theo nhiều cách trái ngược nhau.
Thời có nghĩa là mùa, là giờ, là lần
(time), là thời gian (period)... Trận có
nghĩa là trận đồ, trận thế (cách bài binh
bố trận), hoặc một trận đánh, v.v... Vậy
Nhất thời cân quốc trận có thể hiểu là
có một lần, một trận đánh yếm khăn
hoặc là có một thời kỳ, mặt trận yếm
khăn. Hai cách hiểu khác nhau xa: một
đằng thời gian rất ngắn (trận đánh kéo
dài vài giờ hay vài ngày), một đằng thời
gian kéo dài (mặt trận có thể kéo dài
hàng tháng, hàng năm).
Cấu trúc câu Nhất thời cân quắc trận
lại càng đưa ta vào chỗ mơ hồ: danh từ
cân quắc trận đứng lơ lửng một mình, có
chức năng gì trong câu thơ? Là chủ từ
hay là túc từ? Nếu là chủ từ thì chủ từ
của cái gì, và túc từ thì túc từ của cái gì?
Tác giả đã cố tình để lửng lơ như vậy để
ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. Và vì thế
mà cho tới bây giờ, chưa thấy ai nói đến
ý nghĩa chân thực của bài thơ...
Hiểu sai câu 3 đưa tới việc hiểu sai
câu 4 nên trong cuốn Thơ Văn Lý Trần,
(tập 3, trg 373), ban biên soạn Viện Văn
Học Hà Nội đã dịch là:
3. Đội quân khăn yếm một thời,
4. Lập nên công danh vang dội.
Dịch như thế tạo nên nếp gãy trong
dòng suy tư, vì câu 1-2 nói về giặc Tầu,
câu 3-4 nói về nghĩa quân Việt, hai câu
không ăn nhập gì với nhau, trái với triết
lý của Đường luật.
Vậy câu 3-4 phải hiểu là:
3. Có một thời, nhờ đánh nhau với
đàn bà,
4. Y nhanh chóng lập công danh.
Ý nói móc họng:
Đánh nhau với đàn bà mà cũng vênh
váo tự đắc không biết nhục hay sao?
4. Thơ hay hay dở
Bài Quá Phong Khê thật đơn giản
nhưng vẫn nói lên trọn vẹn "sự nghiệp"
của tên tướng giặc khi sang đánh nước
ta. Lời lẽ bình dị, lạnh lùng: không hằn
học, chửi rủa hay than thở. Nhưng ẩn
sau mỗi câu là một sự mỉa mai miệt thị,
tưởng không có ai có thể mỉa mai miệt
thị sâu sắc hơn được nữa.
Ta hãy đọc lại câu đầu:
1. Lãng Bạc than diều rớt,
Tên tướng giặc được vinh danh là
Tướng quân Dẹp sóng (Phục Ba Tướng
Quân) thấy cuộc chiến kéo dài, bèn bịa
ra chuyện "diều hâu đang bay cũng bị
khí độc giết chết". Nhà thơ bèn nêu
chuyện này ra để nhạo y, ý muốn nói:
Đánh không thắng thì nhận là không
thắng, việc chi phải bịa chuyện lam sơn
chướng khí? Làm tướng sao mà hèn quá
vậy. Chữ - ta (than thở) dùng rất đắc
dụng, đã nêu lên cái bản chất Quảng
Lạc của ông tướng Dẹp Sóng được
người Tầu ca tụng là đã bạc tóc ngoài mặt trận.
2. Phong Khê đắp Kiển Thành.
Đắp thành là việc mà bất cứ ai có
trách nhiệm cũng phải làm, và một viên
quan văn nào chả làm được, miễn là tìm
đúng người để giao việc, cần chi đến
một đại tướng? Nay nhà thơ lại kể đến
việc đắp Kiển Thành, làm như đó là một
sự nghiệp không tiền khoáng hậu của
tướng Phục Ba. Qua câu này nhà thơ đã
đánh giá y rất thấp.
3. Nhất thời cân quắc trận,
4. Đẩu nhĩ lập công danh.
Nhờ đánh nhau với đạo quân đàn
bà - Y nhanh chóng lập công danh.
Hai câu này đã dìm Mã tặc xuống đất đen.
Sau khi lấy thịt đè người, Mã Viện đã
cắm một cán cờ gẫy ở một xó xỉnh nào
đó trên đất Việt và đe doạ: "Đồng trụ
chiết, Giao Chỉ diệt." Ta đã phản ứng lại
câu nói thiếu văn hoá bằng cách làm
cho nó biến mất luôn. Chín trăm năm
sau, ta đã lấy máu của tên thái tử Hoằng
Thao nước Nam Hán rửa cái nhục mất nước.
Ba trăm năm sau nữa, một tên quan
Tầu làm tôi tớ cho nhà Nguyên lại cố
tình sỉ nhục ta bằng cách khơi lại chuyện
Mã Viện: Đồng trụ chí kim, đài vị lục; ta
đã đập lại ngay: Đằng giang tự cổ huyết do hồng.
Cái nhục mất nước đã được rửa,
nhưng lời lẽ ngông cuồng của Mã tặc
vẫn làm ta căm giận. Bài Quá Phong
Khê đã lột hết mũ mãng của hắn để lộ
ra bộ mặt thực của viên tướng Quảng Lạc.
Khác với một số học giả ti tiện Tầu đã
bịa ra những chuyện bỉ ổi để bêu riếu
đối thủ như chúng đã làm đối với bà
Triệu (vú dài ba thước, phải vắt ra sau
lưng), nhà thơ Việt chỉ đưa ra những sự
kiện lịch sử, bằng một ngôn từ chững
chạc, nghiêm trang. Xét về điểm đó, ai
có tư cách hơn ai, sử gia Tầu hay nhà thơ Việt?
Câu hỏi chót mà ta chưa trả lời một
cách minh bạch là: Thế bài Quá Phong
Khê có hay hay không?
Một bài thơ lời lẽ bình dị, trong sáng
hết mực, nhưng phải mất sáu trăm năm
ta mới tìm ra được ý nghĩa đích thực của
nó, một bài thơ như vậy đáng gọi là kỳ tuyệt.
Miệt thị mà không cần nói một lời,
nghệ thuật làm thơ như vậy đã đạt tới
chỗ tuyệt đỉnh cao siêu.
Westminster, 14.9.04
CHÚ THÍCH
1) Khê: trong nguyên tác (?), chữ KHÊ
được viết theo phép hài thanh, bên trái là
chữ khê, con suối, lấy ý, bên phải là chữ
chuy, (Mathews': short-tailed birt) chỉ bộ.
Nhưng trong tự điển Khang Hi, không có chữ
này mà chỉ có chữ KHÊ, viết với bộ điểu và
chỉ một loại chim sống ở khe nước. Vì nhu
liệu chúng tôi dùng chỉ có chữ khê này, nên
chúng tôi tạm dùng nó thay thế cho chữ Khê
của nguyên tác (?).
Cũng xin nói thêm là chữ chuy còn được
đọc là thôi (cùng nghĩa với chữ thôi, trên là
chữ sơn, dưới chữ chuy) và có nghĩa là cao
thâm, dốc thẳm (high, precipitous). Nếu chữ
chuy được dùng với ý này, thì khi sáng tạo ra
chữ khê mới (?), tác giả muốn gán cho nó ý
nghĩa thăm thẳm, cao thâm,...
2) Đẩu: thình lình. Nhĩ: như thế, thôi...
(Mathews': so, like that, -like; merely.)
Vô Ngã
Khởi Hành số 105, Tháng 7.2005

|