|
Bùi Giáng(17.12.1926 - 7.10.1998) | Du Tử Lê(.0.1942 - 7.10.2019) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Như vậy cuối cùng thì bức tượng đồng Y Uyên cũng được phục chế hoàn chỉnh.
Bao nhiêu những lo lắng phập phồng của anh em đã được điêu khắc gia Phạm Văn Hạng và các môn sinh của anh đêm ngày đúc khuôn. Đúc và xoá và đúc chỉ với hai lỗ tai thôi (đã bị kẻ trộm cưa mất cách đây hơn ba mươi năm ở nghĩa trang quân đội Hạnh Thông Tây) nhưng quả thực là khó tạo được vẻ thật của nó lúc ban đầu mà điêu khắc gia Đỗ Toàn cùng anh em văn nghệ ở Tuy Hoà đã bỏ khá nhiều công sức như một tấm lòng với người bạn văn quá cố.
Hôm tôi đến nhà lần đầu, nhìn bức tượng bị mất hai lỗ tai, nhà văn Bùi Đăng (tác giả truyện dài Cúi Mặt đăng nhiều kỳ trên Bách Khoa, sau in thành sách) thầm thì: “may cho mày Uy ạ, mày mất hai lỗ tai để khỏi phải nghe những điều trái khoáy”. Và sau khi anh PVH nhận lời phục chế, cậu Vượng (em út Y.U) đưa bức tượng từ bàn thờ xuống, nói đùa như thật: “Anh ngồi nhà lâu quá, bữa nay anh L. anh H. và em đưa anh đi dạo phố chơi chút, sau đó “tút” lại cho anh đẹp trai như ngày nào”. Chúng tôi bật cười với một chút ngậm ngùi cay đắng.
Giờ thì bức tượng đã hoàn chỉnh, đặt trang trọng trên bàn thờ anh. Nhưng tấm hình thì nhiều vết hoan ố thời gian. Tôi đề nghị gia đình cho tôi mang đi tiệm photostat lại. Vậy là Y Uyên cùng tôi lên xe máy rong chơi phố Sài Gòn giữa trưa nắng. Anh nhìn thấy gì và cảm nhận được điều gì trên những con phố anh em mình đi qua, qua từng ấy năm? Những thay đổi ồn ào, những nhốn nháo lợn cợn trong đầu mỗi người hụt hơi bỡi những đòi hỏi vô tận vô cùng. Anh vào tiệm làm đẹp lại chút xíu nhân dạng mình trên tờ giấy ảnh. Còn tôi thì ngồi bên kia đường với vại bia đen ngó sang như ngày nào anh ngồi hớt tóc, tôi ngoài quán cà phê vỉa hè đợi anh vậy. Anh em mình vẫn gần nhau mà. Vẫn có những khoảnh khắc đợi chờ và tương ngộ và biệt ly. Không. Không thể là biệt ly mà là chia tay. Rồi chúng ta sẽ lại gặp nhau. Cuộc đời là một vòng xoay. Cuộc đời là sự chấm dứt trước và sau. Trở về với cát bụi, vô thường, có và không giữa những vòng xoáy của một hành trình thăm thẳm những hố đen ngòm. Nhân dạng anh khoảnh khắc lại trở về với chốn cũ ngày nào. Dẫu cho đó là một khoảnh khắc không thật. Nhưng dẫu sao khuôn mặt anh, nụ cười rất trẻ thơ của anh làm tôi bùi ngùi nhớ lại những ngày xa lăng lắc, rực rỡ những sắc màu của tuổi thanh xuân, của những ước mơ chưa toại lòng.
Anh vĩnh viễn ra đi nhưng anh vẫn còn đó với anh em, trong lòng anh em quý mến, trân trọng anh. Chỉ tiếc là hơi quá sớm quá vội vã khiến anh em không thể đọc tiếp những tác phẩm tuyệt vời của anh về thân phận con người trong thời dâu biển. Giờ thì anh và tôi và hai người bạn văn trẻ từng ngưỡng mộ anh lại rong chơi với một chút quá khứ mịt mờ. Lại vào quán ngồi uống bia với anh. Tấm ảnh chân dung lồng kính đặt trên ghế đẩu như thể anh vẫn là Y Uyên của ngày nào. Anh em nâng cốc mời anh. Những vại bia lưng dần với chút bồi hồi se thắt. Anh mỉm cười nhìn chúng tôi như ngày nào anh thắng canh bạc xì phé, gọi chúng tôi vào quán Mỵ Châu Thành uống ly la ve nói chuyện làm báo văn chương. Cái quá khứ la đà kéo theo cơn say lúc nào chẳng hay để sáng nay đứng trước bàn thờ thắp anh nén hương tưởng nhớ.
Anh em bạn bè gia đình anh đứng lặng trước bàn thờ nhìn sững vào bức tượng và tấm ảnh chân dung. Anh vẫn như xưa, nhưng có điều là không thốt lên lời nào với những người thân và bạn bè anh đang còn bơi lội trong chốn trầm luân. Tôi đặt tập TQBT số tưởng nhớ anh và tập truyện của anh dưới chân tượng. Tấm lòng của anh em đó anh. Sự thương nhớ của anh em trong ngoài nước gửi trọn lòng thành qua từng trang sách mà anh em góp lại trên các số tạp chí cũ gò lưng ra người đọc người đánh máy người layout người in đóng xén để gửi về anh. Hình như khoé miệng anh hơi dãn nở ra với sự hài lòng, tôi nghĩ vậy khi nhìn chăm chăm lên tổng thể của bàn thờ anh. Những đoá huệ trắng, tulip trắng trong lọ cũng rưng rưng cảm thông. Tôi lại nghĩ, nếu bây giờ anh còn cười nói với anh em thì không rõ tóc anh đã nhuốm màu bạc trắng như mái tóc chị Mỵ chưa? Mối tình đầu mấy chục năm qua chị vẫn trân trọng mang theo bên mình và hôm nay, lần đầu tôi nhìn thấy chị bằng xương bằng thịt (chứ không phải nhân vật Mỵ trong truyện ngắn nào đó anh viết).
Không, Không ai quên anh được, mãi mãi sau này. Tôi chỉ có mỗi một băn khoăn là có khi nào những kẻ thù đã từng chĩa súng bóp cò vào người anh cảm thấy hối tiếc đã huỷ diệt một tài văn không? Chắc là không vì đó là đạn bom giữa chiến trường.
Không sao, anh em bạn bè và độc giả mến mộ anh vẫn luôn ở bên anh.
(Thư Quán Bản Thảo tập 22 tháng 1-2006
Bài trên TQBT ký Ng~)
TIỂU SỬ:
Tên thật Nguyễn Văn Uy
Sinh năm 1943 tại làng Dục Nội, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên.
Là con cả trong gia đình có 9 người em.
Năm 1954 cùng gia đình di cư vào Nam, cư ngụ tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.
Học Trung học tại các trường Trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An (Sài Gòn)
Tốt nghiệp trường Quốc gia Sư Phạm Sài Gòn năm 1964.
Dạy học tại Tuy Hòa, Phú Yên từ 1964-1968.
Nhập ngũ khóa 27 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, mãn khóa chuyển về đóng quân tại đồn Nora Phan Thiết, không lâu sau bỏ mình trong trận phục kích, bên dòng suối, dưới chân núi Tà Lơn ngày 8-1-1969.
Khoảng 4 giờ chiều ngày 11-1-1969, Y Uyên trở về Sài Gòn trong quan tài kẽm phủ quốc kỳ.
10g30 sáng Chủ Nhật 12-1-1969 lớp đất hửng đỏ ở Nghĩa trang Hạnh Thông Tây vĩnh viễn phủ kín anh.
Sau năm 1975, nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nghĩa trang Quân đội Biên Hòa và Hạnh Thông Tây bị buộc phải di dời, nên hài cốt anh được hỏa thiêu và đặt tại Bảo Tháp cộng đồng chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn.
Riêng bức tượng đồng của anh được đặt tại nhà riêng của cha mẹ, anh em tại Gò Vấp.
(Bài trên TQBT ký Ng~)
Các tác phẩm đã xuất bản:
TƯỢNG ĐÁ SƯỜN NON, tập truyện (Thời Mới, 1966)
BÃO KHÔ, tập truyện (Giao Điểm, 1966)
QUÊ NHÀ, tập truyện (Trình Bày, 1967)
NGỰA TÍA, truyện dài (Giao Điểm, 1967)
CHIẾC XƯƠNG LÁ MỤC, tập truyện (Tân Văn, 1968)
ĐUỐC SẬY, tập truyện (Văn Uyển, 1969)
CÓ LOÀI CHIM LẠ, tập truyện (Tân Văn, 1971)
- Thơ Phương Tấn Là Đồng Vọng Những Đau Thương Của Dân Tộc Nguyễn Lệ Uyên Nhận định
- Thơ Nhã Ca, một vài tư liệu nhỏ Nguyễn Lệ Uyên Nhận định
- Cảnh Cửu Và Sự Cô Đơn Đến Tận Cùng Nguyễn Lệ Uyên Nhận định
- Như Mới Hôm Qua Nguyễn Lệ Uyên Hồi ức
- Gia Tài Của Võ Hồng Nguyễn Lệ Uyên Tham luận
- Cát Bụi Mệt Mỏi, Bản Giao Hưởng Định Mệnh Của Nguyễn Đức Sơn Nguyễn Lệ Uyên Nhận định
- Tình Muộn Nguyễn Lệ Uyên Truyện ngắn
- Chinh Ba – Đi tìm tự do qua chiếc xương cụt? Nguyễn Lệ Uyên Nhận định
- Bên Ngoài Hàng Rào Nguyễn Lệ Uyên Truyện ngắn
- Vụ Mưu Sát Lộng Lẫy Nguyễn Lệ Uyên Truyện ngắn
• Chiến tranh đi qua những truyện ngắn của Y Uyên (Nguyễn Lệ Uyên)
• Núi Tà Dôn và dấu chân Y Uyên (Lê Mai Lĩnh)
• Tưởng Nhớ Y Uyên (1943-8.1.1969) (Nguyễn Lệ Uyên)
• Y Uyên, văn chương của một cuộc chiến (Viên Linh)
• Nhớ Y Uyên (Trần Phong Giao)
• Y Uyên (Thư Quán Bản Thảo)
Thư gởi người đã chết (Trần Thị Uyên Ngọc, Talawas)
Chiếc xương lá mục, Có loài chim lạ, Bão khô (Talawas)
• Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc (Vương Trùng Dương)
• Trịnh Y Thư: Những mối tình trong “Đường về thủy phủ” (Phan Tấn Hải)
• Đọc sách “Sài Gòn không phải ngày hôm qua” của Phúc Tiến (Nguyễn Văn Tuấn)
• Đọc “Cùng nhau đất trời” của Khánh Trường (Song Thao)
• Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Đỗ Anh Hoa)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |