12-09-2012 | HỘI HỌA
Tưởng Nhớ Điêu Khắc Gia Lê Thành Nhơn
 Lê Thành Nhơn và Tượng Đức Mẹ Việt Nam
Khi được tin Lê Thành Nhơn qua đời vào tháng 11 năm 2002 ở Úc,
chúng tôi có bài viết tưởng niệm anh, in trên tạp chí Thế Kỷ 21, số
165&166, năm 2003.
Đó cũng là dịp để chúng ta có thể nhìn lại toàn bộ sự nghiệp và phần nào
đánh giá những công trình nghệ thuật anh đã để lại cho cuộc đời. Bài viết
có sử dụng nhiều dữ kiện và trích lại một phần đã viết về Lê Thành Nhơn
trong "Nghệ thuật tạo hình Sàigòn trước năm 1975" in ở phần đầu của sách
này. Tuy nhiên, chúng tôi cũng in lại nguyên văn dưới đây, không cắt xén
bớt, để bạn đọc có thê có một cái nhìn toàn diện và liền mạch về chân dung
nhà điêu khắc lớn của chúng ta. (H.H.U)
Trước năm 1975, ba nhà điêu khắc trẻ Mai Chửng, Trương Đình
Quế và Lê Thành Nhơn, mỗi người một phong cách riêng, đã
góp phần tạo nên một vẻ mặt sinh động cho nền điêu khắc trẻ trung
của miền Nam. Rồi thời thế đổi thay nhiều quá, mỗi người lưu lạc
một phương trời, nhưng dường như cả ba đều luôn giữ ngọn lửa sáng
tạo cháy sáng trong lòng mình. Trương Đình Quế ở lại trong nước, bị
bủa vây vì biết bao gian khổ ràng buộc, từ khó khăn về kinh tế của
một đời sống nghèo nàn xuống cấp không tưởng tượng được chung
quanh, cho đến những áp đảo trầm trọng về tinh thần, anh vẫn giữ
vững tinh thần và vẫn có những tác phẩm đẹp, với cách nhìn mạnh mẽ và sáng.
Cũng nên nhắc đến Phạm Văn Hạng, đi tiếp con
đường Trương Đình Quế đang đi, và đã dựng được nhiều tác phẩm rất
đồ sộ, có thể nói là những công trình điêu khắc lớn, mang nhiều dấu
vết thời đại mà lại rất vững chắc, hoành tráng, đáng kể như chưa từng
thấy. Trong khi ấy, Mai Chửng lưu lạc ở Mỹ, phải bỏ nghề vì thúc
bách trong cuộc sống mới quá khủng khiếp, nhưng cái ám ảnh của
nghề, của nghiệp, của nghiệp chướng, hay đúng hơn là cái thúc đẩy
của đời sống bên trong tâm hồn, đòi hỏi phải làm một cái gì cho mới
mẻ. Vậy là Mai Chửng bỏ việc sinh nhai để trở lại với điêu khắc thiết
cốt Của anh. Một số tác phẩm mới của Mai Chửng đã vượt qua nhiều
chặng đường cũ của chính anh trước đây; anh vừa mới mang lại cho
chúng ta một số tác phẩm vừa được đúc đồng xong, với một cách
nhìn rất mới mẻ. Nhưng ở tuổi sáng tạo chín muồi ấy, Mai Chửng lại
chia tay vĩnh viễn với chúng ta, dở dang bao nhiêu công trình đang nuôi dưỡng.
Năm vừa qua, nền nghệ thuật của đất nước mất đi một
tài năng lớn đang ở độ sung mãn thì năm nay chúng ta lại mất thêm
Lê Thành Nhơn: một nhà điêu khắc nổi bật đặc biệt trên vùng đất
mới Úc châu, được ghi nhận vì những đóng góp sáng giá của anh.
Nhân tài như lá mùa thu, trời đất quả là có phần bất công với nền
nghệ thuật của chúng ta, mà những ngọn lá ấy cũng chưa vàng úa
hẳn, chỉ mới đổi màu đã tan tác lìa cành. Không riêng trong lĩnh vực
điêu khắc, mà nói rộng hơn một chút là nghệ thuật tạo hình, cách đây
vài năm chúng ta mất Ngọc Dũng, rồi Mai Chửng, tháng trước là Lê
Thành Nhơn, mới cách đây vài ngày là Bửu Chỉ. Đều là những giá trị
và tài năng không có gì thay thế và bù đắp được.
Tôi đã có dịp đề cập đến Ngọc Dũng (1), sẽ có dịp nói đến Mai
Chửng và Bửu Chỉ. Với bài viết này, xin trở lại với Lê Thành Nhơn.
Trong khoảng thời gian 1970-1975, Lê Thành Nhơn được công chúng
chú ý đến một cách đặc biệt vì dự án xây dựng mười tượng đài danh
nhân tầm cỡ của Việt Nam. Tập trung suy nghĩ, thu thập tài liệu và
thực hiện liên tục nhiều phác thảo trong tình trạng nghiên cứu, Lê
Thành Nhơn hăm hở, nhiệt tình dồn hết tất cả sức lực của mình, quyết
dựng những tượng đài to lớn các danh nhân đất nước, mỗi tượng đài
sẽ là một tác phẩm cô đọng những nét đặc trưng nhất. Trước tiên anh
bắt tay thực hiện chân dung Nguyễn Trung Trực, pho tượng lớn được
đắp bằng đất sét thử nghiệm nơi xưởng làm việc của anh giữa một
khu vườn ở đường Nguyễn Du, Quận I, Sài Gòn, dự trù sẽ đúc đồng
để dựng ở Rạch Giá, trên chính vùng đất nhà anh hùng dân chài đổ
dòng máu dâng trào vào những ngày đầu Nam Bộ kháng Pháp. Thời
kỳ này, pho tượng Phan Thanh Giản cao 2.5m cũng đã được hoàn tất,
thực hiện bằng xi măng cốt sắt.
Cuối thập niên 60, đầu 70, đang giảng dạy tại trường Cao Đẳng
Mỹ Thuật Gia Định, được mời thỉnh giảng ở trường Cao Đẳng Mỹ
Thuật Huế, trong những ngày đi về làm việc ở Huế, ý định của anh
về những công trình này càng được thôi thúc thêm giữa bầu khí sôi
sục của một thành phố hừng hực lửa đấu tranh. Những tượng đài
Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu... nhất
định sẽ phải được dựng lên. Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, Đại
Nội Huế, thành phố Huế vừa lặng lẽ vừa sôi nổi, và những người
bạn của Huế đã kích thích, gây nên một sự phấn khích rất đặc biệt
để Lê Thành Nhơn hoàn thành pho tượng đồ sộ Phan Bội Châu.

Chân dung Phan Bội Châu, điêu khắc đồng
Chân dung Phan Bội Châu, linh hồn của cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã hình thành trong bối
cảnh ấy. Giữa khuôn viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, pho
tượng được hoàn tất đợt đầu bằng đất sét. Khuôn mặt nhà ái quốc
vĩ đại được đắp tạc khá hoàn hảo, đầy tính chiến đấu, lột tả được
nét kiên cường, cứng rắn, quyết liệt, cũng như sự thông tuệ rực rỡ
vô song. Tượng chỉ là khuôn mặt phóng lớn đầy tính diễn tả, thêm
vào đó là những mảng phù điêu đắp nổi, phía hậu diện pho tượng,
hình ảnh cuộc đấu tranh bền bỉ của đất nước từ kỷ nguyên thứ nhất
cho đến ngày nay. Cũng cần biết thêm là phù điêu hậu diện pho
tượng bấy giờ còn dở dang. Các mẫu phù điêu này hiện nay đã
được Lê Thành Nhơn hoàn tất; sẽ được thực hiện bằng đồng ở Úc
châu, với hy vọng một ngày nào đó trong tương lai sẽ được đưa về
ráp thêm vào phía sau pho tượng.
Pho tượng Phan Bội Châu bằng đất sét được người thợ đúc truyền thống của Huế đúc thành tượng
đồng cao hơn hai thước, nặng gần bốn tấn, công trình đang thực
hiện dở dang thì biến cố 1975 xảy đến. Gần 15 năm trôi qua, pho
tượng nằm hoang phế giữa Phường Đúc gần đồi Long Thọ, và mãi
đến cuối năm 1987, di tích lịch sử và mỹ thuật này mới được chuyển
về dựng lại tại vườn cũ của cụ Phan, rất trang trọng trên đầu dốc
Bến Ngự. Pho tượng này đặt ở đây là đã đúng yêu cầu về phương
diện lịch sử, tuy nhiên với kích thước của nó, mà có một địa điểm
khác rộng lớn hơn, có không gian hơn, thì chắc chắn sẽ tạo nên
được nhiều hiệu quả hơn nữa về mặt thẩm mỹ. Dù sao cũng là rất
đáng mừng vì pho tượng hiện nay đã được xem là một bộ phận
trong toàn quần thể di tích văn hóa nghệ thuật Huế, đặt dưới sự bảo
trợ của UNESCO, tổ chức văn hóa-giáo dục-khoa học của Liên Hiệp Quốc.
Cùng với thời kỳ phác thảo và thực hiện tượng Phan Bội Châu, Lê
Thành Nhơn thực hiện khá đạt tượng chân dung Quan Thế âm trước
Trung Tâm Văn Hóa Liễu Quán của Phật giáo ờ Huế. Là tượng Phật
Quan Âm, tất nhiên phải giữ một vài quy cách ước lệ cũ, có nghĩa là
phải giữ lấy vài điểm chính để gợi ý về biểu tượng này. Tuy nhiên
chúng ta cũng nên xem đây là chân dung của một người phụ nữ với
phong cách rất lạ, phía trên đầu là một khối hình chóp gần với
thể dạng quen thuộc trong mỹ thuật Chàm, với các vũ nữ múa Apsaras,
các tượng nữ thần Laksmi hay Siva, khuôn mặt rất bay bổng do đôi
mắt thanh nhã, môi mỏng, cổ cao mà tác giả đã tìm cảm hứng hiện
thực từ khuôn mặt của một ca sĩ thời danh và rất phiêu lãng lúc bấy
giờ. Gần như phong cách tượng Phật Quan Thế Âm vừa đề cập, chúng
ta còn tìm thấy vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng cứng cáp và
chắc nịch của khối thể nơi tượng Bà Mẹ Việt Nam với chiếc khăn
trùm quen thuộc của những bà mẹ Nam Bộ. Tượng này vẫn còn nguyên
chỗ cũ, trước sân xưởng làm việc ngày trước của Lê Thành Nhơn,
101 Nguyễn Du, Q.I, Sài Gòn. Trong gần 20 năm sau ngày 30.4.75,
rất đáng tiếc là pho tượng này không còn ai để ý tới nên không được
giữ gìn, bảo vệ cẩn thận giữa bao nhiêu sắt gạch, gỗ đá chồng chất
của một cơ sở xây dựng của thành phố Sài Gòn. Hiện nay tình hình
đã đổi khác nhiều, người ta đã bắt đầu biết lưu tâm đến một số giá trị
cũ, hy vọng là tượng Bà Mẹ Việt Nam sẽ có chỗ đứng đàng hoàng
trong đời sống văn hóa của Sài Gòn, nếu không muốn nói là của đất nước. (*)
 Người Phụ Nữ Melbourne, sơn dầu Nguồn: Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại, VAALA, 2008
Năm 1975, định cư tại Melbourne, tiểu bang Victoria, Úc Đại Lợi,
sau khi vượt qua những khó khăn bước đầu trong cuộc sống mới, Lê
Thành Nhơn tiếp tục con đường nghệ thuật trước đây anh đã đi qua ở
quê nhà, đã có nhiều đóng góp vào cuộc sống đa văn hóa nơi đây.
Bút pháp cũ sống động trở lại với tượng Mẹ Việt Nam, phảng phất
khuôn mặt hai pho tượng cũ Quan Thế Âm và Bà Mẹ Việt Nam, dựng
giữa Trung tâm Văn hóa Công giáo Hoan Thiện được Đức Giáo Hoàng
rất mến mộ. Louise Carbines, một ký giả chuyên về mỹ thuật có
tiếng tăm của Úc, trong bài viết Nuôi sống tinh thần Việt Nam (Keeping
the Sprit of Vietnam Alive) in trên báo The Age số ngày 20.7.1991 (2),
đã đánh giá pho tượng này:
Giữa những tượng thuộc phái trừu tương và những tượng bán
thân gân guốc hiện đại, bức tượng Đức Mẹ đứng tĩnh mặc trong
xưởng đúc Meridian ở Fitzroy có một sức thu hút tỏa ra từ phong
cách và tầm vóc của tác phẩm. Với đường nét hiền dịu tỏa ra từ
cặp mắt và đôi tay, chiếc áo dài của người Việt, bức tượng đối
tượng của niềm tin rằng ngôi làng Nazareth là một với trái đất,
và không có sự phân cách nào giữa Nazareth với một ngôi làng
Việt Nam... (*)
Cũng phải kể đến pho tượng Phật đúc đồng của anh được chọn bày
tại Bảo tàng Quốc Gia Canberra hồi tháng 6.1991, rồi được lưu giữ
vĩnh viễn trong bộ sưu tập của Nhà Bảo Tàng này. Nhà phê bình văn
học Nguyễn Hưng Quốc, cũng là người bạn thân thiết của Lê Thành
Nhơn, đã cho chúng ta biết Lê Thành Nhơn là nghệ sĩ Việt Nam duy
nhất và là một trong những nghệ sĩ ít ỏi có gốc gác nước ngoài ở Úc
có tác phẩm được giữ gìn trong bộ sưu tập này (3). Về các pho tượng
khác, như tượng Joy bằng đồng cao khoảng 2.50m được dựng trước
sân đại học Monash (Canfield Campus) tại Melbourne, tượng Chân
Dung Mùa Thu, Mẹ và Con, (tức là bức tượng về một bà mẹ đưa con
mình vượt qua biển dữ để đến nơi an toàn), bộ tượng Sinh, Lão, Bệnh,
Tử cũng rất được nhiều người chú ý đến.
Về tượng Phật của Lê Thành Nhơn, tôi rất đồng ý với đánh giá
của Thi Vũ: Tượng trong các chùa của nước ta dựng theo mô hình
Trung Quốc. Nước nào của Á châu cũng có tượng đặc thù sắc nét
dân bản địa: Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Cam Bốt, Lào, Trung
Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Nhìn tượng Phật các nước này, ngoài
mỹ quan Phật giáo cố định qua 32 tướng tốt và 80 tướng tùy hình
của Phật, hình nét dân tộc mỗi nước đều lộ qua sắc diện. Riêng
Việt Nam chưa thấy rõ. Tượng Phật Việt Nam mới bắt đầu có đôi
chút cách tân với Nguyễn Khoa Toàn ở Huế vào những năm 1930.
Và đến nay, Lê Thành Nhơn là một nghệ sĩ tài năng thực sự, một tài
năng lớn, đã chuyển hóa được tâm thức quê hương bị vùi lấp từ bao
lâu bên bờ quên lãng, sống động trở lại trên khuôn mặt Đức Phật
thực sự hết sức tài tình (4). Chúng ta có thể cảm nghiệm lại điều này
khi chiêm ngắm pho tượng Phật cao 4.5m hiện dựng tại Trung tâm
Phật học Huệ Nghiêm, Phú Lâm, Sài Gòn. Đặc biệt hơn nữa là hãy
trầm lắng chiêm ngắm khuôn mặt thanh thản, từ ái và trí tuệ nơi
pho tượng Phật được dự định đặt trên đỉnh một ngôi chùa tương lai
(hình in đính kèm bài viết này).
Điêu khắc gia nào cũng phải vẽ tranh. Lê Thành Nhơn cũng vậy.
Nguyễn Hưng Quốc cũng đã cho chúng ta biết Lê Thành Nhơn có
khoảng vài trăm bức tranh thuộc nhiều khổ khác nhau, trong đó có
nhiều bức có kích thước rất lớn, như bức Yarra River dài 4 thước, bộ
Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) là một bộ tứ bình, mỗi tấm cao 2 thước
và dài 6 thước (riêng bức Gió thì dài 6 thước rưởi) (5).
Nhìn lại quá trình hoạt động nghệ thuật của Lê Thành Nhơn, chúng
ta thấy rất rõ là từ bước đầu, ngay từ những ngày chập chững, rồi tốt
nghiệp ở trường Mỹ Thuật cho đến những năm đầu của thập niên 90,
Lê Thành Nhơn đã tạo được một phong cách chừng mực của riêng
anh: không đi vào con đường truyền thống mà cũng không tiến hẳn
vào điêu khắc hiện đại. Có lẽ nên nói rằng, đó là một bút pháp, hay
đúng hơn, là kiểu cách ấn tượng của riêng anh. Ấn tượng mà đã nhiều
phần ngả sang biểu tượng. Khi tạc một chân dung, dĩ nhiên là anh
phải quan sát dáng dấp bên ngoài, nhưng hơn thế nữa, anh tiến vào
chiều sâu bên trong, tìm cho ra cái lực đẩy đã tạo ra hình thái bên
ngoài. Cách nhìn ấy là chủ quan, nhưng cũng có thể nói khi dựng nên
tác phẩm thì nó đã trở nên rất hài hòa giữa cái nhìn chủ quan và thực
tại khách quan. Hãy nhìn lại pho tượng Phan Bội Châu, tượng Quan
Thế Âm, hay tượng Mẹ Việt Nam, chúng ta sẽ thấy ra ngay điều đó.
Và chắc là Lê Thành Nhơn đã học được rất nhiều ở Auguste Rodin về
nghề điêu khắc trong kỹ thuật cũng như tư tưởng chủ đạo trên đường
đi tìm và thực hiện cái đẹp. Như Rodin đã từng nói:
Khi một nhà điêu khắc có tài nắn mô hình về thân người, anh ta
không chỉ miêu tả những cơ bắp cho thực sinh động, mà chính là
anh ta vẽ lại đời sống bên trong của những thân hình ấy, hơn cả
sự sống sinh động bên trong nữa..., mà chính là cái lực nội tại
tạo thành hình thái bên ngoài của các thân người ấy, tạo cho
chúng cái duyên dáng, sức mạnh, vẻ yêu kiều, hay là niềm vui
không gì kiềm chế được. (6)
Tôi đã từng thấy Lê Thành Nhơn tìm xem nhiều tài liệu về Phan
Bội Châu, hình ảnh Phan Bội Châu, suy nghĩ và phác thảo vô số để
cùng đúc kết thành chân dung Phan Bội Châu. Ai đã tùng được
gặp cụ Phan thời trước 1940 ở Huế, hay xem nhiều hình ảnh cụ Phan
ghi lại trong sử sách thì cũng đều phải thấy là Lê Thành Nhơn đã
thực hiện đúng chân dung của cụ. Mà hơn thế nữa, như ý kiến vừa đề
cập đến bên trên của A.Rodin, Lê Thành Nhơn đã bằng con mắt chủ
quan của mình để nhìn cho ra được cái lực đẩy bên trong tâm hồn cụ
Phan, và rồi đã tái tạo trên tác phẩm một cách linh động, tài tình
khuôn mặt nhà ái quốc vĩ đại của đất nước.
Giữa thập niên 90, hình như do một cơ duyên rất đặc biệt, Lê Thành
Nhơn đã phát hiện được cái đẹp tự nhiên của một số đá tảng, một vài
khối đá bị xói mòn hoặc biến đổi vì những hiện tượng địa chất trong
một chuyến đi bên Pháp. Rồi từ đó, anh đã đục đẽo thêm, bào mòn
những chỗ thừa thãi và có những tác phẩm điêu khắc hiện đại thuần
túy. Tôi không được xem những pho tượng này thực sự tận mắt, chỉ
được xem các hình chụp lại. Như tượng Nứng bòi hay Cửa vườn Xuân,
gợi lên một không khí erotic đầm đìa rất thơ mộng, có những đường
uốn lượn gần với Henry Moore, Constantin Brancusi, hay Hans Arp.
Có lẽ cũng nên biết thêm đôi chút về tiểu sử nhà điêu khắc này.
Sinh năm 1940 ở Thủ Dầu Một, một trung tâm thủ công mỹ nghệ lớn
phía Đông Sài Gòn, rất nổi tiếng về các sản phẩm sơn mài và gốm,
điều này chắc hẳn có nhiều ảnh hưởng về con đường nghệ thuật của
anh. Nguyễn Hưng Quốc cho chúng ta biết thêm một chi tiết khá hay
là bà mẹ của Lê Thành Nhơn là một phụ nữ Việt Nam gốc Chàm lai
Trung Hoa (7). Tôi đã có nhiều dịp gặp gỡ và nói chuyện với Lê Thành
Nhơn, mặc dù chưa có liên hệ thân thiết, nhưng có thể nói là cũng
biết nhiều. Có một điều gì đó mơ hồ nơi anh mà tôi chưa biết được,
thì đến nay Nguyễn Hưng Quốc đã cho tôi biết: dòng máu pha trộn
nơi anh có chất Chàm. Điều này hẳn cũng ảnh hưởng nhiều vào tác
phẩm của anh, cũng như đất đai Thủ Dầu Một đã dễ đưa anh đến với
nghề điêu khắc và làm gốm của anh.
Lê Thành Nhơn tốt nghiệp thủ khoa ngành điêu khắc, khóa 9 trường
Mỹ Thuật Gia Định năm 1964, được họa sĩ Lê Văn Đệ ngợi khen và
đánh giá là sinh viên ưu tú nhất kể từ ngày trường thành lập. Có lẽ do
chỗ tri kỷ ấy mà Lê Thành Nhơn cũng đã từng tạc tượng chân dung
bậc thầy này, đặt ở trường Mỹ Thuật Gia Định trước năm 1975.
Giảng dạy ở các trường mỹ thuật Gia Định, Mỹ Thuật Huế, và Đại
học Cộng đồng Duyên hải Nha Trang. Năm 1975, định cư ở Melbourne,
tiểu bang Victoria, Úc. Năm 1987, anh đã được trường Kiến Trúc của
Viện Kỹ Thuật Hoàng Gia Melbourne mời dạy học, và sau đó Bộ
Giáo Dục mời anh đảm nhận một chương trình đưa nghệ sĩ vào học đường.
Đã tham dự các cuộc triển lãm: Liên Hoan Nghệ thuật Quốc tế ở
Paris, 1963; Sài Gòn, 1965 và 1969; Melbourne, 1975; Dusseldorf
(Đức), 1975; Bremen (Đức), 1976; Koln (Đức), 1977; Melbourne, 1992;
Sydney, 1992.
Đã thực hiện tác phẩm Hành Trình Vào Tương Lai
bằng vitrail, ghép kính màu cho Hội đồng Úc châu, Melbourne, năm
1991. Có tác phẩm thuộc sưu tập của Viện Bảo Tàng Quốc Gia Úc
(National Museum of Australia) ở thủ đô Canberra và Bảo tàng Antartica.
Lê Thành Nhơn sinh ngày 17 tháng 11 năm 1940, qua đời ngày 4
tháng 11 năm 2002 tại bệnh viện Royal Melbourne Hospital, Australia,
để lại một sự nghiệp đồ sộ với nhiều dấu ấn đặc biệt.
Thành phố Vườn, California, 25.12.02
Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại
VAALA, 2008)
Chú thích:
(1) Huỳnh Hữu Ủy, "Tưởng nhớ Họa sĩ Ngọc Dũng", Văn số 45, tháng 9.2000.
(2) Dẫn theo bản chuyển dịch Việt ngữ của Thường Quán, Thế Kỷ 21, số 29, 1991.
(3) Nguyễn Hưng Quốc, "Điêu khắc gia Lê Thành Nhơn trở bệnh ung thư nguy
kịch", Việt Báo Kinh Tế, số ngày thứ Bảy, 23.2.2002.
(4) Thi Vũ, "Tượng, hình và tính siêu việt trong điêu khắc Lê Thành Nhơn", Quê
Mẹ, Paris, giai phẩm Xuân Giáp Tuất, 1994.
(5) Nguyễn Hưng Quốc, "Lê Thành Nhơn đã từ trần", Văn Học, California, số
200, tháng 12.2002, trang 136-137.
(6) Dẫn lại trong Art of the 20th Century, Volume II, Ingo F. Walther chủ biên,
Benedikt Taschen Verlag GmbH, Koln, Germany, l998, trang 411.
(7) Nguyễn Hưng Quốc, Văn Học, đã dẫn.
Bài viết "Tưởng nhớ điêu khắc gia lê Thành Nhơn" khi in trên Thế Kỷ 21, Tết
Quí Mùi, số 165 & 166, tháng Giêng và Hai năm 2003, có hai điểm chưa được cập
nhật hóa, nay xin được ghi thêm cho rõ:
1) Về pho tượng Bà Me Việt Nam. Pho tượng này không còn nằm ở địa chỉ 101
Nguyễn Du, Quận I, Saigon nữa. Năm 2000, Lê Thành Nhơn đã trở lại Việt Nam để
chuyển pho tượng về gửi ở sân nhà bà dì của anh ở đường Lê Ngô Cát, Quận 3, Sàigòn.
2) Về pho tượng Mẹ Việt Nam. Dựa vào một bài viết của Louise Carbines, chúng
tôi đã viết là pho tượng được dựng ở trung tâm Công Giáo Hoan Thiện. Nhưng thực
sự thì, pho tượng này không được các cộng đoàn Công Giáo chấp nhận vì không
phù hợp với hình ảnh thân thiết và quen thuộc của họ, nên hiện nay vẫn còn được
lưu giữ ở một xưởng đúc đồng ở Melbourne. (Chú thích theo ghi nhận của Nguyễn
Hoàng Văn, một cây bút đang sống ở Úc, trong bài viết Đôi mắt Lê Thành Nhơn...,
Tạp chí Văn, California, số 72, tháng 12, 2002, trang 46).
Nhân cần đính chính hai điểm trên, chúng tôi cũng xin trích đăng thêm ở đây bài
viết Lê Thành Nhơn: Một Nghệ Sĩ Lớn của Hoàng Ngọc Tuấn in trên số báo Văn
vừa dẫn, tức số đặc biệt Chia Tay Họa Sĩ - Điêu Khắc Gia Lê Thành Nhơn (1940-2002).
Hoàng Ngọc Tuấn, người bạn gần gũi và thân thiết với Lê Thành Nhơn, là
một tài năng văn nghệ đa dạng, hoạt động trong nhiều lãnh vực: âm nhạc, kịch
nghệ, văn chương. Chính với thuận lợi như thế, Hoàng Ngọc Tuấn đã phác vẽ lại
được, chỉ trong mấy nét chấm phá, bức chân dung Lê Thành Nhơn thực vô cùng
linh hoạt. Bài viết này được viết từ ngày 9 tháng 1 năm 2000, nhân cuộc triển lãm
hội họa Lê Thành Nhơn mang tên "Giao Hưởng của Âm và Sắc" tại Turbine Gallery,
Casula Powerhouse Arts Centre, Sydney.

|