Tiếng Sáo Người Em Út (Khuất Đẩu)Ad-21Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)
21-01-2013 | VĂN HỌC
Tiếng Sáo Người Em Út
KHUẤT ĐẨU
Share File.phpShare File
Nhà văn Dương Nghiễm Mậu (Đinh Cường vẽ)
Dù là một nhà văn được nhóm Sáng Tạo phát hiện, nhưng
Dương Nghiễm Mậu không viết như Mai Thảo, nghĩa là
không cách tân lối viết, không quá chú trọng làm sao cho
mỗi chữ gõ lên nghe leng keng.
Ông có vẻ như một “phu chữ” kiên nhẫn “gánh” những
con chữ như cách Hữu Loan gánh từng tảng đá, để dựng
nên ngôi nhà chữ nghĩa của mình. Ngôi nhà ấy, mới trông
rất bình thường nếu không muốn nói là tầm thường.
Nhưng bước vào trong, cái vừa hấp dẫn vừa làm ta ngài
ngại, chính là không khí trong mỗi truyện, một không khí
hơi lành lạnh, hơi u uất, hơi dằng xé. Truyện nào cũng đau
đau, buồn buồn, để lại hay làm bật lên trong lòng người
đọc những suy nghĩ, những băn khoăn thực khó gọi tên,
nhưng rất gần và rất thực.
Như truyện có thể gọi là rất mỏng và rất nhẹ của ông mà
tôi sắp nói tới đây: truyện Tiếng sáo người em út.
Truyện không hơn 10 trang in, chỉ có 3 nhân vật. Người
anh cả, người em út và người cha vừa mới chết.
Người anh cả về thăm nhà không báo trước, nghe tiếng sáo
của người em út không còn thô mộc mà nay đã chín, cảm
thấy rất vui. Người anh vào nhà, thấy cha đang nằm, để
yên cho cha ngủ. Nói chuyện với người em đang xúc lúa từ
cỗ áo quan, mới biết người em gái kế đã chết. Nói về ông
nội, về mẹ. Sau cùng người em út nhờ người anh cả giúp
mình khiêng cỗ áo quan lên nhà trên. Người anh nhíu mày:
“Mang lên làm gì?”. “Cho cha nằm”, người em nói.
Người anh lặng đi đôi mắt mở lớn nhìn người em không
chớp: “cha chết rồi sao?”. “Cha đi tối hôm qua”. Người
anh vụt bỏ chạy lên nhà trên, tiếng bước chân, tiếng cửa
va đập rồi tiếng khóc oằn lên…
Những sự việc nêu trên tưởng là rất bình thường hóa ra rất
kịch tính. Từng lớp, từng lớp như những cánh cửa gỗ trong
một ngôi nhà cổ mở dần ra, để sau cùng dẫn người đọc tới
cái nỗi đau òa vỡ của người anh cả: sau bao nhiêu năm mới
về thăm nhà thì cha đã chết! Chỉ ba chữ khóc oằn lên đã
cho ta thấy được cái bất hạnh nghẹn ngào của đứa con tự
kết tội mình.
Nhưng nếu chỉ để kể lại một câu chuyện buồn như thế thì
chắc tác giả cũng không muốn kể làm gì. Tác giả còn
muốn hơn thế nữa. Muốn qua người em út nói đến cách
sống và cách nhìn đời của người cha. Một người, cả đời
không làm gì quấy, không có gì phải hối hận…cha nhẹ
lòng khi nhắm mắt có con ở bên. Con hãy thổi sáo cho cha
nghe. Và em đã thổi sáo từ đêm qua đến giờ...
Người em út mới đọc lướt qua, tưởng đó là một người vô
tâm nếu không muốn nói là không giữ tròn chữ hiếu. Cha
chết mà lại đi thổi sáo! Chẳng tẩm liệm, chẳng để cha
mang theo một thứ gì ngoài những hạt thóc đựng trong
ruột tượng của mẹ. Tự mình bồng cha lên đặt vào cỗ áo
quan, để cha gối đầu lên đó. Cũng không ma chay, chỉ có
bát cơm trắng mời cha cùng ăn với hai anh em. Cũng
không trống kèn ỉ eo, chỉ có mỗi tiếng sáo đơn độc của mình!
Nhưng đó là một người con trai út rất hiểu cha, yêu cha và
biết nối chí cha, dù giặc giã, dù trâu không còn một con
cũng cố bám lấy đất vì đất vẫn chung tình cho họ từng hạt
lúa. Khi người em thổi cơm, từng hạt gạo rơi xuống gặp
phải lửa thành bỏng gạo, người em nhặt lên bỏ vào miệng
chứ không để cháy thành than. Và tuy người em út bảo anh
về thì em sẽ đi, nhưng cuối cùng: anh nghĩ em bỏ nơi này
mà đi được sao? Ai cũng bỏ đi cả thì nơi này ai coi, ruộng
ai cày và những người như anh lấy đâu nơi để trở về?
Người em út qua những cử chỉ, lời nói có vẻ không còn là
một người em nhỏ bé nữa. Anh ta sống bên cạnh cha từ
nhỏ, chứng kiến bao nhiêu cái chết, bao nhiêu đổi thay
chẳng những đã trưởng thành mà còn trở nên già dặn, sâu
sắc. Ta có cảm tưởng người anh cả đang nói chuyện với
cha mình chứ không phải với người em út. Hay nói cách
khác, chính người em út là hình bóng còn đọng lại của
người cha.
Người anh cả, thời gian và đường xa đã dạy cho anh
những gì? Chị bé đã chết, bao nhiêu người đã chết, bao
nhiêu đổi thay, anh đâu có sống với những điều đó? người
mà mỗi lần nhắc tới anh, cha tép miệng rồi mỉm cười: nó
có còn sống thì cũng như đã chết.
Người anh trở về ít nhiều mang mặc cảm tội lỗi với gia
đình. Nhưng đó không phải là một người phá gia chi tử,
không đàng đúm ngược xuôi mà bỏ nhà đi vì một mộng
tưởng nào đó, cho dù là lạc đường dại dột. Người cha với
lòng thương con, đã bênh vực người anh cả khi nói, anh đã
sống thay cho cha.
Trong truyện Gia tài của mẹ, người mẹ chính là hình ảnh
tượng trưng của một nước Việt Nam nội chiến từng ngày.
Thì ở truyện này, tôi cũng thấy một nước Việt Nam qua
hình ảnh của người cha nghèo dù trải qua bao đời vẫn bám
giữ lấy đất và truyền lại ý nguyện đó cho thế hệ mai sau.
Truyện được viết tại Sài Gòn, 1974. Gần 40 năm sau, đọc
lại mà giật mình. Những ruộng đồng Việt Nam, giờ rất
thiếu đàn ông, chỉ có đàn bà và các người già là còn cố
bám lấy đất.
Người anh cả ấy, giả dụ như ra đi từ sau 75 liệu lúc này trở
về có còn được nghe tiếng sáo của người em út? Một tiếng
sáo rất nhẹ nhàng nhưng là tiếng sáo nhẫn nhục của người
ở lại. Tiếng sáo không than van, không oán trách, nhưng
sao nghe rất bùi ngùi.
Vì bỏ nơi này mà đi được sao, nên tác giả sau 75 không
ngờ lại là “người em út”, người sống với bao nhiêu đổi
thay, bao người đã chết, quyết trụ lại nơi này dù biết rằng ô
nhục, tù đày vì nếu không thì những người như các anh lấy
đâu nơi để trở về?
Trên tôi đã nói, những con chữ của tác giả rất thô mộc.
Không kéo lê thê với những tính từ trùng lắp không cần
thiết. Tôi có cảm giác những con chữ ấy là những hạt gạo
trên sàng, nghĩa là tác giả đã lọc lựa rất kỹ, nhất là những
hạt sạn. Người khác, có thể vì tiếng sáo mà kết thêm hoa lá
cành để có thể là tiếng sáo của Trương Lương, hay của
Trương Chi. Nhưng ở đây: tiếng sáo không còn thô mộc,
non nớt, chập chững những bước đầu đời mà nay tiếng sáo
đã chín. Từ thô mộc/non nớt/chập chững đến đã chín là cả
một khoảng thời gian dài. Những lần tiếng sáo cất lên, đều
vui tươi thanh thoát, chỉ sau cùng, khi chôn cha xong, mới
bi thiết.
Tiếng sáo ấy tuy phát ra từ hơi thở của người con út,
nhưng thực sự là tiếng lòng của người cha. Vì thế, khi thổi
xong, người em út đã cắm chiếc sáo trên mộ cha. Cử chỉ
này gợi nhớ đến người xưa trả kiếm bên mộ. Lòng hiếu
thảo của người em út thật khác người, bi tráng.
Tác giả cố ý không đặt tên cho các nhân vật. Chỉ nhắc đi
nhắc lại, người cha, người anh cả, người em út. Vậy nên,
người nào cũng có thể là người cha, người anh cả và người
em út trong mỗi gia đình Việt Nam. Có nghĩa rằng ít nhiều
người đọc bồi hồi thấy thấp thoáng hình bóng của mình
trong đó.
Tiếng sáo nói lên được tiếng lòng của người cha, thì cỗ áo
quan lại nói lên cả một khoảng thời gian dài từ ông nội với
cái án xử bắn, với đứa con gái chết chùm một lúc bốn
người không nhặt được xác để chôn, nó gợi nhớ đến một
cuộc chiến tranh quá dài, dài đến nỗi không còn làm ai xúc
động được nữa trước cái chết. Và tấm nhiễu đỏ, được chôn
theo cha, phải chăng là máu và nước mắt từ nay hãy tan
vào lòng đất để cho cây lúa lại mọc lên tươi tốt?
Nhiều người thường nói tới cái hiện sinh mà Dương
Nghiễm Mậu chịu ảnh hưởng của các trào lưu phương tây.
Tôi nghĩ, cũng chỉ là một chiếc áo mà chính họ cho là đẹp,
là mới, muốn khoác lên tư tưởng Dương Nghiễm Mậu, thế
thôi. Tư tưởng của ông rất Việt Nam, rất nhân hậu. Có ảnh
hưởng chăng là cách viết, cách dùng câu chữ, cách dựng
truyện của ông. Mỗi chi tiết đều phải thật cần thiết, phải
sắp xếp sao cho thật khoa học. Từ chiếc sáo đến cỗ áo
quan, cái ruột tượng của mẹ, bát cám lợn, bát cơm… đều
được đặt đúng lúc đúng chỗ. Vì vậy, truyện không lan man
mà chặt chẽ như một kịch bản phim. Trọng tâm của truyện
là tâm hồn và nhân cách của người cha được bao quanh
những lớp vỏ như một củ hành. Cái lõi cay nhất, nồng nhất
nằm ở lớp vỏ tận cùng. Chỉ một cái ruột tượng của mẹ
đựng đầy lúa để gối đầu cho cha, cũng đủ cho ta thấy ông
yêu vợ đến thế nào. Và cũng chỉ có người con út mới hiểu
được tình yêu đó của ông.
Tôi thấy cách viết đó phảng phất như E. Hemingway viết
Lão ngư ông và biển cả. Cái bộ xương cá bên cạnh chiếc
thuyền tơi tả kia nếu tác giả không đưa vào truyện thì coi
như đã không có một Lão ngư ông và biển cả làm xúc
động cả thế giới.
Truyện cũng gợi nhớ đến Malentendu của A. Camus, ở đó
người em gái Martha đã nguyền rủa người anh vắng mặt
của mình với tất cả căm hận, vì thế mới đưa đến ngộ nhận
đến nỗi người mẹ giết con. Ở đây, người em không kết án
người anh, tuy có ít nhiều trách móc anh đã bỏ nhà đi. Vì
vậy, toàn bộ câu chuyện tuy có vẻ buồn nhưng không đến
nỗi trở thành bi kịch. Vẫn có chỗ cho tình anh em, tình cha
con, có chỗ cho sự dung thứ. Và đó là cái khác biệt giữa
một Âu châu đổ nát sau thế chiến thứ hai với một Việt
Nam sau một cuộc chiến tương tàn quá dài.
Chỉ với một truyện ngắn này thôi, ta cũng đã nhìn ra được
tầm vóc của một bậc thầy. Phải chăng vì vậy mà Vũ Hạnh
đã dùng cái mã tấu “phản động” để “chặt” ông khi thấy tác
phẩm này được tái bản?