1. Head_

    Cao Đông Khánh

    (..1941 - 12.12.2000)

    Lê Phổ

    (2.8.1907 - 12.12.2001)
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Xem Tranh, Nhớ Người (Lê Hữu) Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

      10-12-2025 | VĂN HỌC

      Xem Tranh, Nhớ Người (Seattle, xanh mãi ngàn năm)

        LÊ HỮU
      Share File.php Share File
          

       


      “Cứ nhìn bức tranh này lại nhớ chị Hà.”


      Thỉnh thoảng vợ tôi vẫn lặp lại câu ấy khi ngước nhìn tấm tranh treo ở phòng ăn. Những lúc ấy tôi chỉ gật gù tỏ sự đồng tình chứ cũng chẳng buồn ngoái nhìn, chỉ vì tranh ấy nhìn mãi quen mắt quá rồi.


      Bức tranh khổ 14”x18”. Một người bạn tôi nói đấy là bức ảnh hơn là bức tranh. Tôi thì vẫn quen gọi là tranh và cũng không nhớ được ở đâu tôi có bức tranh hay bức ảnh này. Nếu có nhớ là nhớ tôi bắt gặp nó trong “bộ ảnh sưu tập online" của mình, thấy hay hay bèn đến tiệm Office Depot nhờ in ra và mang về treo nơi góc khuất ở phòng ăn. Thường thì tôi vẫn ghi chú "nguồn" của bức tranh, tấm ảnh như tên họa sĩ hay nhiếp ảnh gia, nhưng tranh này thì tôi lại quên ghi hoặc không tìm được nguồn.


      Bức tranh cũng chẳng có gì đặc biệt cho lắm. Dăm bảy người khách bộ hành tay cầm những chiếc dù đủ màu sắc, bước đi vội vã dưới cơn mưa nặng hạt dọc theo vách tường building trên đường phố nào. Những mảng màu xám tối. Những sợi mưa đan chéo nhìn thấy được và hè phố loang loáng nước. “Điểm nhấn” trong tranh là người phụ nữ mặc áo khoác màu đỏ nép sát vào vai người đàn ông đi bên cô. Sáng sáng, vừa ngồi nhâm nhi tách cà-phê vừa nhìn ngắm bâng quơ bức tranh mưa lẫn trong tiếng nhạc rainy day jazz lơ lửng từ một Youtube nào, cũng được ít phút thư giãn, đỡ buồn.


      Có điều, chuyện sở thích và gout thẩm mỹ không phải ai cũng giống như ai.


      “Bộ không còn tranh nào khác hay sao mà anh treo tranh này vậy,” vợ tôi nêu nhận xét, “Trông tối tăm, ảm đạm quá.”


      “Cảnh trời mưa thì làm sao mà sáng sủa được,” tôi trả lời cho qua chuyện.


      Không riêng gì vợ tôi, những bạn bè tôi cũng chẳng ai buồn ngó ngàng gì đến tranh ấy. Chỉ có một lần, bức tranh được chị Tú chiếu cố. Ngắm nghía một lúc, chị đặt tên tranh là “Seattle”. Kể từ ngày ấy bức tranh có được cái tên, là tên của thành phố mưa này.


      Cho đến một ngày hè, hai chị Trùng Dương và Bùi Bích Hà từ nơi xa cùng vài người bạn ở đây ghé chơi. Có một lúc tôi bắt gặp chị Hà lặng lẽ đứng ngắm bức tranh.


      “Chị thích tranh này?” tôi hỏi.


      “Anh có thấy chỗ nào là lạ trong bức tranh này?” chị không trả lời, hỏi lại tôi.


      “Chịu,” tôi nói sau một lúc nhìn kỹ bức tranh vốn đã quen mắt, quen nhìn. “Tôi chưa ‘phát hiện’ được điểm nào lạ lùng cả.”


      “Người phụ nữ cầm chiếc dù xanh đậm đi ngược chiều với những người kia.”


      Tưởng sao, chỉ có vậy. Đi ngược chiều thì cũng… đâu có sao, có đâm vào nhau đâu, tôi nghĩ bụng.


      “Tôi thấy cô ấy giông giống chị,” tôi nói. “Không phải là chị chứ?”


      “Anh nói đúng,” chị Hà cười. “Thỉnh thoảng tôi cũng thấy mình không giống ai vì cứ hay đi ngược chiều với mọi người.”


      Chị Hà quả có óc quan sát tinh tường. Không có tài quan sát và những giác quan bén nhạy thì khó làm nhà văn như chị, tôi nghĩ. Tôi chú mục vào bức tranh như thể chưa bao giờ ngắm nghía nhìn kỹ nó. Đúng như chị Hà nói, người đàn ông mặc áo coat màu xám ngả người ra sau để tránh không đụng phải người phụ nữ đi ngược chiều. Riêng về chuyện chị nói “mình không giống ai” tôi ngẫm nghĩ thấy có đúng chứ không sai, chẳng hạn khi đã “yêu” một đối tượng nào là chị yêu hết mình cho dù những bạn bè không ai ủng hộ chị. Mặc ai muốn nói gì thì nói vẫn không sao thuyết phục được chị, vẫn không làm chị thay đổi lập trường. Chị như người có đức tin thật mạnh mẽ.


      Sau bữa cơm, trong lúc mọi người còn đang chuyện trò vui vẻ, chị Hà bước lại gần tấm tranh với tách trà trên tay.


      “Chị có vẻ thích tranh này?” Đứng bên chị, tôi lặp lại câu hỏi khi sáng.


      “Bức tranh làm tôi nhớ những cơn mưa ở Huế,” chị gật gật đầu.


      Câu trả lời khiến tôi khá bất ngờ. Sao lại có vụ “mưa trên phố Huế” ở đây? Tôi hơi lấy làm lạ, nhưng cũng không tiện hỏi.


      “Anh cũng thích mưa mà, phải không?” Ngừng một chút, chị lại hỏi, “Anh cũng thích đi dưới mưa như thế chứ?”


      “Tôi vừa thích mưa lại vừa không thích mưa,” tôi trả lời. “Tôi cũng thích đi dưới mưa vậy nhưng không phải là mưa Seattle này mà ở nơi nào khác, như là ở Đà Lạt. Những cơn mưa mỏng, mưa phùn, mưa bụi, gọi là những cơn mưa chỉ vừa đủ làm ướt tóc của những đôi tình nhân.”


      Chị Hà chỉ cười, mắt vẫn không rời bức tranh.


      “Chị Hà này,” tôi nói, “tôi thích bức tranh, nhưng chị thích nó hơn tôi nên tôi rất vui được biếu chị tranh này, xem như quà tặng người đến từ một nơi rất hiếm hoi những cơn mưa.”


      “Anh cứ nói đùa”, chị lắc đầu nguầy nguậy.


      “Không dám đùa đâu, tôi nói thiệt đấy. Chị là người duy nhất khen tấm tranh ấy, những người khác thì dửng dưng, chả ai thèm để mắt tới hay khen chê cho một câu.”


      Mặc tôi nói gì thì nói chị vẫn không chịu nhận “món quà” ấy, khiến tôi phải nghĩ cách khác.


      “Chị là người thứ hai cho ý kiến về bức tranh này,” tôi nói.


      “Người thứ nhất là ai?” chị hỏi. “Ý kiến thế nào?”


      “Vợ tôi. Bà ấy khuyên tôi nên mang cho Goodwill.”


      “Sao lại thế!? chị tròn mắt. “Thôi thế thì anh cho tôi xin vậy, tôi sẽ treo ở phòng làm việc. Cám ơn anh nhé.”


      “Tôi phải cám ơn chị chứ. Chị bằng lòng là mang niềm vui đến cho ba người.”


      “Anh thật khéo nói,” chị cười.


      “Tôi học ở chị đấy.”


      Tôi nói nếu chị mang được cả khung tranh này lên máy bay thì tôi không phải cuốn tấm tranh lại, chị Hà nói chị có cách. Thế là tôi lấy bức tranh "Seattle" xuống cho vào túi đựng tranh canvas, định bụng sẽ gửi chị lúc chị ra về. Thế nhưng mải vui tíu ta tíu tít chuyện trò với các anh chị kia, đến lúc ra về thì cả chị Hà lẫn tôi đều quên bẵng bức tranh. Thật chán đời!


      “Chị Hà ơi!” tôi gọi cho chị hôm sau. “Ngày rời Seattle chị đã để quên một thứ, không phải là ‘con tim’ đâu, chị có nhớ thứ gì không?”


      “Nhớ chứ,” chị nói. “bức tranh. Khi lên máy bay tôi mới sực nhớ ra, muốn gọi cho anh mà không được… Thật là đoảng! Đầu óc bây giờ cứ nhớ nhớ quên quên. Thôi anh chịu khó giữ hộ vậy, lần tới lên Seattle chắc chắn tôi không quên đâu.”


      Cái “lần tới” ấy chẳng bao giờ tới. Cơn đại dịch quái ác và dai dẳng không cho chị thực hiện được lời hứa mỗi năm một lần “đến hẹn lại lên” với Seattle.


      Bức tranh “Seattle” đã lấy xuống lại được treo lên. Bức tranh vẫn nằm ở nhà tôi nhưng đã thuộc về chị Hà, chỉ là chị “để quên” đấy thôi. Chúng tôi chỉ còn liên lạc được với chị qua phone, email.


      Trong những câu chuyện, thỉnh thoảng chị nhắc đến bức tranh và tỏ sự áy náy về căn bệnh nhớ nhớ, quên quên của mình.


      “Đâu có sao chị. Thay vì trông hoa, nhớ người thì nhà này lại… ngắm tranh, nhớ người. Có tranh cũng như có chị, cũng như lúc nào chị cũng ở bên cạnh tụi này.”


      Câu nói nửa đùa nửa thật ấy, ngờ đâu, lại hóa ra thật sau ngày chị mất. Chị Hà đã đi xa nhưng bức tranh ấy tựa những “Dấu chân còn để lại” (tên một tùy bút của chị) ở nơi này. Bức tranh còn nằm đó, im lìm, như người mòn mỏi đợi chờ một người biền biệt đi xa, đi mãi không về.


      Những lúc nhìn lên bức tranh vợ chồng tôi lại nhớ chị, nhớ giọng nói chị lúc nào cũng nhỏ nhẹ dịu dàng như cô giáo nói với đứa học trò nhỏ, nhớ cách nói chị lúc nào cũng gượng nhẹ như sợ không khéo làm đau, làm buồn lòng người khác.


      Bức tranh là của chị Hà, vợ tôi không còn đòi đem cho Goodwill nữa và tôi cũng không được phép cho ai khác. Tôi còn biết làm gì hơn với bức tranh ấy ngoài chuyện mỗi sáng lại ngồi nhấm nháp tách cà-phê sóng sánh, lại lơ đãng đưa mắt nhìn những sợi mưa đan chéo bên hè phố loang loáng nước, lại nghe vẳng bên tai tiếng nhạc rainy day jazz lơ lửng. Vẫn là bức tranh ấy nhưng có gì khang khác. Bức tranh như có một linh hồn.


      *


      Tôi không ở gần chị Hà, cũng không được kể là thân thiết với chị. Chị có những người bạn thân quý từng có mối giao tình thắm thiết và lâu dài trong lúc tôi chỉ gặp chị lần đầu cách đây đúng mười năm, cũng tháng này, cũng ở thành phố mưa này. Chiều hôm ấy, chị và tôi được mời nói chuyện về "thơ Trần Mộng Tú" trong một buổi sinh hoạt văn hóa có thơ, có tranh và nhạc. Tôi chưa kịp khen chị có giọng nói thật êm dịu và cuốn hút thì chị đã khen tôi nói thao thao bất tuyệt (chị không biết là tôi chỉ lặp lại những ý từ một bài viết cũ mèm của mình).


      “Cám ơn chị nhé,” tôi nói, “lâu lắm chưa được ai khen cho một câu. Sáng mai chị có rảnh tôi xin phép được mời chị đi ăn sáng, uống cà-phê.”


      Chị Hà chỉ cười cười. Sáng hôm sau nhóm bạn ở đây rủ chị đi ăn sáng và dạo chơi loanh quanh mà không có tôi. Hôm sau nữa gặp lại tôi chị có ý trách khéo là tôi… hứa cuội. Tôi vừa ngượng vừa buồn cười, không biết phải giải thích như thế nào với chị. Thêm một chuyện cũng làm tôi ngượng nữa là trong lúc chuyện trò chị cứ “Thưa anh...” mặc dù chị đáng tuổi chị Hai tôi và tôi xin chị đừng có thưa thốt như vậy nữa. Thế nhưng có vẻ đấy là thói quen “trên mức khiêm tốn” của chị Hà khiến chị vẫn cứ “Thưa anh/thưa chị” với cả những người kém tuổi chị.


      Cuộc đời chị Hà kém vui như chị từng thổ lộ. Chị yêu công việc, chị tìm niềm vui trong công việc. Chị làm việc nhiều đến quá sức mình. Bác sĩ từng nhiều lần khuyên chị bớt việc lại nhưng chị nào có nghe. Chị sẽ buồn chết đi được nếu phải ngưng công việc.


      Sau ngày chị bất ngờ rời bỏ thế gian này, có một lúc tôi bỗng dưng nhớ câu nói của chị, “Bức tranh làm tôi nhớ những cơn mưa ở Huế.” Sao lại là Huế nhỉ? Khi ấy tôi đã định hỏi chị nhưng lại không hỏi. Giờ đây tôi ngẫm nghĩ thấy chị nói phải. Mưa Seattle này không giống như mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội hay mưa Đà Lạt mà gần với mưa xứ Huế hơn, với tiếng mưa sụt sùi, với những cơn mưa dầm dề và câu thơ Nguyễn Bính,


      Giời mưa ở Huế sao buồn thế!

      Cứ kéo dài ra đến mấy ngày


      Thế rồi, tôi tìm đọc những bài chị viết về Huế, về nơi chốn chị mở mắt chào đời và từng có bề dày gắn bó thiết tha. Trang viết nào cũng đầy ắp những kỷ niệm, cũng rưng rưng cảm xúc.

      Trời mưa ở Huế làm tôi buồn muốn khóc, thương nhớ biết bao những mùa mưa thời thơ ấu ở nơi xa xôi ấy, với cha với mẹ, với anh với chị, với mộng mơ ngập lòng.


      Mưa kéo dài hàng tháng. Mưa dai dẳng, mưa rả rích, mưa bay nghiêng, mưa rát mặt. Tiếng mưa lúc cao lúc thấp, lúc đục lúc trong; tiếng mưa im lìm trên những lối đi đầy cỏ; tiếng mưa cô đơn, phiền muộn trên những tàu lá rộng; tiếng mưa thầm thì, rời rã trong tim bàng hoàng những mộng ước không thành. (Huế Yêu Dấu)

      Chưa hết, chị còn viết thêm,

      Có những người tình không bao giờ quên, có những cuộc tình không bao giờ quên, có những cuộc tình đi vào thiên thu. Với tôi, Huế là một cuộc tình không trọn vẹn, nhưng là một cuộc tình kết tụ tất cả tinh hoa của một đời người, họa may chỉ có cái chết mới làm nó yên nghỉ trong lãng quên. (Huế Yêu Dấu)

      Chị Bùi Bích Hà, chị đã thực sự "yên nghỉ trong lãng quên". Huế, như thể là người tình của chị, như thể là cuộc tình chị "không bao giờ quên".


      Chị Bùi Bích Hà, chị đã “Trở về mái nhà xưa”, như tên bài nhạc chị từng có một thời yêu thích. Chị đã về ngồi lại bên thềm nhà cũ, lắng nghe từng giọt mưa đã gieo trên thềm nhà như lắng nghe cuộc tình ấy "đi vào thiên thu".


      Lê Hữu

      Nguồn: Seattle, Xanh Mãi Ngàn Năm - Tuyển tập nhiều tác giả
      Ghi dấu 50 năm người Việt định cư tại Hoa Kỳ 1975-2025

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Xem Tranh, Nhớ Người Lê Hữu Tưởng niệm

      - Tìm con nơi Thiên Đường Lê Hữu Phóng tác

      - Hoa anh đào nở rộ Lê Hữu Phóng tác

      - Nhạc Việt miền Nam, di sản văn hóa bất diệt của chính thể Việt Nam Cộng Hòa Lê Hữu Khảo luận

      - Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, “người lính già không bao giờ chết” Lê Hữu Nhận định

      - Ngày xuân, dạo chơi Phố Ông Đồ Lê Hữu Tản văn

      - Ông già Noel vô tích sự Lê Hữu Truyện ngắn

      - Một tách cà-phê cho hai người Lê HỮu Tùy bút

      - Lá gan của cô còn tốt lắm! Lê Hữu Truyện ngắn

      - Ảo giác Trịnh Công Sơn Lê Hữu Nhận định

    3. Bài viết về nhà văn Lê Hữu (Học Xá) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Bài viết về Lê Hữu

        Cùng Tác Giả (Link-1)

      Lê Hữu, Người Tìm Ngọc Trong Đá (Hoàng Lan Chi)

      Giới Thiệu Tác Phẩm Mới: Quà Tặng Giữa Mùa Dịch (Học Xá)

      Lê Hữu: Âm Nhạc Của Một Thời (T. Vấn)

      Lê Hữu và Một Thời Âm Nhạc (Phạm Xuân Đài)

      Nhạc phổ thơ, thơ phổ nhạc (Bích Huyền)

      Chút Duyên Văn Nghệ (Bích Huyền)

      Lê Hữu (Học Xá)

      - Lê Hữu: Ngôn Ngữ Ngậm Ngùi (T.Vấn)

      - Lê Hữu- Âm Nhạc của một thời

        (hoanglanchi.com)

      - Tiểu sử tóm tắt (hocxa.com)

       

      Tác phẩm của Lê Hữu

        Cùng Tác Giả (Link-2)

      Xem Tranh, Nhớ Người (Lê Hữu)

      Tìm con nơi Thiên Đường (Lê Hữu)

      Hoa anh đào nở rộ (Lê Hữu)

      Nhạc Việt miền Nam, di sản văn hóa bất diệt của chính thể Việt Nam Cộng Hòa (Lê Hữu)

      Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, “người lính già không bao giờ chết” (Lê Hữu)

      - Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Đông

      - Bài viết, bài gõ, bài vẽ

      - Bản di chúc 71 chữ

      Tác phẩm của Lê Hữu trên mạng:

      damau.org,     • t-van.net,

      diendantheky.net

       (hoanglanchi.com)

       

      Văn Học (Học Xá)

       

      Tác Giả

       

      Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)

        Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)

        Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)

        Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)

      Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)

        Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)

      Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)

      Dương Quảng Hàm (Viên Linh)

      Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)

      Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)

        Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

      Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)

      Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)

      Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)

      Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn

      Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)

      Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)

      Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)

      Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)

      Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)

      Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh

       (Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)

      Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)

      Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn

      Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)

      Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An

      Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)

      Danh Mục Tác Giả: Cùng Chỉ Số (Link-2) An Khê,  Andrew Lâm,  Andrew X. Phạm,  Au Thị Phục An,  Bà Bút Trà,  Bà Tùng Long,  Bắc Phong,  Bàng Bá Lân,  Bảo Vân,  Bích Huyền,  Bích Khê,  Bình Nguyên Lộc,  Bùi Bảo Trúc,  Bùi Bích Hà,  Bùi Giáng,  

       

      Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Xem Tranh, Nhớ Người (Lê Hữu)

      Sắc Thu (Phạm Hảo)

      Người Việt Nghĩ Gì Về Văn Chương-Văn Học Thế Giới? (Ngu Yên)

      Đynh Trầm Ca, Vừa Trôi Vừa Hát (Hà Khánh Quân)

      Nguyễn Hữu Hiệu - Tâm hồn người, thơ văn ta (Viên Linh)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học Miền Nam (Học Xá)
  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)