1. Head_

    Phan Lạc Phúc

    (.0.1928 - 28.4.2016)

    Trần Tấn Quốc

    (..1914 - 28.4.1987)
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Tuệ Sỹ, Tù Đày Và Quê Nhà (Viên Linh) Ad-21 Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)

      27-11-2023 | VĂN HỌC

      Tuệ Sỹ, Tù Đày Và Quê Nhà

        VIÊN LINH
      Share File.php Share File
          

       

      I.



         Nhà Sư Tuệ Sỹ sau 14 năm
            trong tù Cộng Sản

      Trong các nhà tu hành trẻ tuổi hồi thập niên ’70, khuôn mặt của Tuệ Sỹ, vóc dáng Tuệ Sỹ là khuôn mặt và vóc dáng của một hiền giả, nhìn vào, nói tới, là nhìn vào, nói tới một tinh thần, một phong cách xán lạn. Hồi ấy, ảnh hưởng truyện kiếm hiệp Kim Dung còn mạnh, Võ Lâm Ngũ Bá từ Anh Hùng Xạ Điêu thấy xuất hiện ngoài đời. Những phụ nữ tác xác được gọi là Kim Bà Bà, ghen tuông lườm nguýt thành Triệu Minh, Chu Chỉ Nhược. Đào hoa vợ nọ con kia thành Đoàn Chính Thuần. Ngốc Tử gặp may thành Đoàn Dự. Hèn hạ nịnh nọt len vào chốn cao sang thành Vi Tiểu Bảo. Năm vị anh hùng trấn võ lâm, đem vào gia phả Vạn Hạnh, có Trung Thần Thông Vương Trùng Dương Thượng Tọa Minh Châu, Viện trưởng; Bắc Cái Hồng Thất Công Bùi Giáng; Nam Đế Ngô Trọng Anh; Tây Độc Phạm Công Thiện, và Đông Tà Tuệ Sỹ.


      Những lần lui tới Vạn Hạnh, tôi tiếp xúc với hầu hết chư vị tăng ni ở đây, người nào trong mắt nhìn của một ký giả, tôi cũng có thể đùa rỡn, ngoại trừ Đông Tà. Trong Ngũ bá Vạn Hạnh, tôi kính trọng thầy Minh Châu, anh Ngô Trọng Anh, giao du với Tây Độc Phạm Công Thiện, nhưng với Đông Tà Tuệ Sỹ, lòng tôi cứ trùng xuống, nói năng nhẹ đi, và cái nhìn của tôi không còn sắc cạnh nữa. Đi tu như Sân Đại đức, tôi dư sức thành chánh quả. Hành thiền như Si phương trượng, tôi không có hạnh Bồ tát, song cũng không hèn mà không trụ trì nổi một cảnh chùa nhỏ ven sông. Tuệ Sỹ vượt lên trên những tăng chúng thường gặp. Con người ấy là con người thật, và còn vượt hơn cả cái thật của con người. Con người ấy, tuy vậy, một lần giận tôi, ngồi mãi ở Tòa soạn Thời Tập mà nói, chỉ vì tôi đã đăng một bài thơ anh dịch chưa xong, mà coi như xong rồi.


      Lúc ấy, cùng với các anh Đỗ Khánh Hoan, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Cao Huy Khanh, Lê Tài Điển, và Trùng Dương, Tuệ Sỹ đứng trong bộ Biên Tập của Thời Tập, hậu thân của Khởi Hành các năm trước.


      Khoảng 1984, lúc ở Hoa Kỳ, nghe tin Hà Nội vây hãm chùa Già Lam, nghìn trùng xa cách, tôi biết ngay Tuệ Sỹ lâm nạn. Ngày 30 Tháng Chín, 1988, vị chân tu ấy bị họ lên án tử hình, cùng học giả Trí Siêu Lê Mạnh Thát, các cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Phan Văn Trí, Tôn Thất Kỳ, và 17 vị khác thuộc Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam và Lực Lượng Việt Nam Tự Do. Tôi nhờ giáo sư Đỗ Đình Tuân dịch cho một bài thơ của bạn tôi qua tiếng Anh, Mười Năm Cuộc Lữ, thực hiện ngay một bản tin bằng tiếng Anh, và mang lên đọc trong một Đại hội của Văn Bút Hoa Kỳ ở Los Angeles. Tôi đọc nguyên văn bản của Tuệ Sỹ, và anh Trịnh Y Thư sau đó đọc bản dịch Anh ngữ. Văn Bút Quốc tế qua tài liệu do bà Jeanne-Leedom Arckeman, lúc ấy là Chủ tịch Văn Bút Hoa Kỳ ở Miền Tây chuyển lên giùm, đã can thiệp tích cực vào vụ chùa Già Lam. Cũng vụ này, Tạp Chí Văn Học làm một số đặc biệt vào ba tháng sau, và tôi đã dành lấy việc trình bày cái bìa, và làm ba đoạn thơ cảm khái, với nhan đề Trí, Tuệ.

      Nhà Lý Văn Lang Công Uẩn ôi!

      Bao nhiêu thế kỷ đã qua rồi?

      Thăng Long rồng hiện xem bờ cõi

      Cửa mở Già Lam thả phượng chơi.

      Mỏng mảnh như mây gió thổi về

      Vén tầm vô hạn xuống bờ mê

      Gác chuông Trí, Tuệ kinh vừa giảng

      Dưới đáy trần gian quỉ kéo đi.


      Vẫn tiếng sông sầu róc rách trôi

      Bến Vàng lớp lớp mộng lôi thôi

      Vung tay Sỹ hận hề, tung sách

      Chữ nghĩa nghìn trang, Trí vá trời.

      (Viên Linh, Văn Học, số 35.12.1988 – tr18)

      II.


      Trong cuộc sống xô bồ với giấy mực của tôi, Tuệ Sỹ như một băng hồ. Băng hồ ấy có thể đóng đá, song lại bốc hơi. Hơi ấm của băng hồ. Nói nhỏ nhẹ, nói như viết, anh không nói thừa. Anh cũng không cao giọng, dù trong lòng không vui.


      – Anh đọc lại đi. Tôi đã dịch xong đâu.


      Tuệ Sỹ ngồi im, hai tay đặt lên hai thành ghế, cả người lọt thỏm trong chiếc ghế gỗ màu gụ của Tòa soạn Thời Tập, cũng là văn phòng nhà in Phúc Hưng của anh em chúng tôi ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn.


      – Tôi nghĩ xong rồi. Xong rồi anh mới đưa tôi đăng chứ?

      – Tôi đưa anh đọc.

      – Tôi thấy hay thì đăng.


      Câu này hình như làm cho tác giả TRIẾT HỌC VỀ TÁNH KHÔNG giận. Một lần nữa anh bảo tôi đọc lại đi, xem có phải là thơ không, mà tôi đem đăng lên Thời Tập.


      Trong quan điểm một Chủ bút, tôi vẫn chủ trương thơ của các tác giả vô danh, thì phải hay mới đăng được, còn bài của những người có tên tuổi, thì có làm sao, tôi vẫn đăng, trừ phi nguệch ngoạc quá tay (vì các tác giả có tên tuổi sẽ chịu trách nhiệm về bài viết của họ, còn với tác giả vô danh, người chịu trách nhiệm chính là người chọn bài đăng.) Cho nên nếu lấy thơ loại B mà ký Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, tôi vẫn đăng. Và bài Vua Tần Uống Rượu Tuệ Sỹ dịch thơ Lý Hạ, không lý gì tôi không đăng. Khoảng 1973, 74, Tuệ Sỹ đã rất có uy tín.

      VUA TẦN UỐNG RƯỢU

      (dịch thơ Lý Hạ)


      Tần vương ẩm tửu


      Tần vương kỵ hổ du bát cực,

      Kiếm quang chiếu không thiên tự bích.

      Hy Hoà xao nhật pha ly thanh,

      Kiếp khôi phi tận cổ kim bình.


      Long đầu tả tửu yêu tửu tinh,

      Kim tào tỳ bà dạ trành trành.

      Động Đình vũ cước lai xuy sính,


      Tửu hàm hát nguyệt sử đảo hành.

      Ngân hà tiết tiết dao điện minh,

      Cung môn chưởng sự báo nhất canh.


      Hoa lâu ngọc phượng thanh kiều ninh,

      Hải tiêu hồng văn hương tiên thanh,

      Hoàng nga điệt vũ thiên niên quang.


      Tiên nhân chúc thụ đới yên khinh,

      Thanh cầm tuý nhãn lệ hoằng hoằng.


      Vua Tần cưỡi cọp chơi tám cực

      Ảnh kiếm chỉ trời, trời tự biết

      Hy Hòa rung mặt nhật rộn tiếng pha lê

      Kiếp tro bay hết, cổ kim bình.


      Đầu rồng rót rượu mời sao rượu,

      Tì bà cần vàng đêm tang tình

      Gót mưa Động đình đến thổi sênh.


      Rượu mềm hét trăng bắt đi lui

      May bạc ùn ùn, điện Dao sáng

      Cung nhân chưởng sự báo sang canh.


      Lầu hoa phượng ngọc tiếng rộn ràng

      Rong biền, văn hồng, hương chập chờn

      Ngài vàng nhảy múa, chén ngàn tuổi.


      Cây đuốc người tiên khỏi sáp nhẹ

      Thanh cầm mắt say lệ rào rào. (1)


      -----------

      (1) Nguyên văn in trong Lý Hạ luận, của Châu Thành Nhân Hongkong, 1971, tr.20.

      Đọc lại, quả có thấy thiếu vần. Đoạn một, tôi nói có thể coi là có vần trắc, do hai chữ cực và chữ biếc, nghe tương tự đồng âm. Đoạn hai chắc chắn có vần, do hai chữ tình ở câu trên, và sênh ở câu dưới. Đoạn ba tôi đồng ý không có vần, nhưng nối với đoạn hai, thì chữ canh đi với chữ sênh, coi là đồng âm. Đoạn bốn tôi đồng ý không có vần, nhưng không sao. Còn hai câu kết…


      Tuệ Sỹ giận lắm. Tôi thấy hai bàn tay anh nổi xanh trên tay ghế. Anh nói gì đó không còn nhớ nguyên văn, song đại ý là như thế mà coi là có vần được à. Tôi nói như không có vần thì có điệu, coi như thơ tự do. Toàn bài, đối với anh chưa hoàn tất, nhưng đối với tôi, tôi thấy hay. Tôi thấy anh tức giận thực sự, ngồi im bặt thật lâu.


      Nguyễn Đức Sơn từng nổi giận tại Tòa soạn Thời Tập, la hét như người kinh phong, đi qua đi lại, hai đầu gối nhấc cao, làm cho tà áo lam gẫy khúc, khi tôi đăng thơ anh dọc theo chiều gáy tờ báo, nghĩa là phải quay 90 độ mới đọc được, song Tuệ Sỹ giận thì như mặt hồ đóng băng. Im lặng. Tĩnh chết. Một lúc sau anh đứng dậy ra về, không nói gì hết. Giận vậy thôi, trước là Khởi Hành (1969-1972) và sau là Thời Tập (1973-1975) vẫn là hai tờ tạp chí đăng tải nhiều sáng tác nhất của Tuệ Sỹ, trong có ít nhất là hai bài thơ hay: Sơ Huyền (Tang thương một giải tóc thề), Mơ Tuổi Vàng (Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ / bài thơ làm Bùi Giáng choáng váng) và ba truyện ngắn, tùy bút xuất sắc: Truyện Chuyến Xe Đò Cao Nguyên về một “cuộc lữ nhỏ” trên đường Pleiku; truyện Sư Thiện Chiếu về “cuộc lữ lớn” của một nhà sư dựng nước; hay Quỉ Thi của Lý Hạ


      Nhà Đại Đức về rồi, tôi ngồi đọc lại bài Vua Tần Uống Rượu, quả có thấy là chưa hoàn tất, nhưng nhất định hay thì vẫn hay. Tháng Tư 1998, tôi lên Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ sao lại bài này, lúc về lại California thì bị mất cắp ở phi trường Fort Worth, Texas. Tháng Mười Hai 1998, tôi trở lại Hoa Thịnh Đốn sao chép một lần thứ hai, và bản sao thu nhỏ như phía trên. Với tôi giờ này đọc lại, vẫn thấy hay như thường.


      Dịch thơ, là dịch cho nổi ý tác giả; dịch đúng vần mà không đạt ý thì đâu phải là dịch hay? Đó là thơ mình mượn ý của người. Tần Vương kỵ hổ du bát cực mà dịch là Vua Tần cưỡi cọp chơi tám cực thì hay quá rồi còn gì nữa. Vừa đối chữ, vừa chỉnh thanh. Kiếm quang chiếu không không tự bích. Ánh kiếm chỉ trời trời tự biếc thì hết ý, ai có thể dịch hay hơn? Hai chữ không không dịch thành hai chữ trời trời, đâu phải ai cũng dịch được? Hy Hòa xao nhật pha lê thanh dịch là Hy Hòa rung mặt nhật rộn tiếng pha lê thì đúng nghĩa, tuy rằng phải thêm chữ mặt và chữ rộn.


      Câu dưới, Kiếp hôi phi tận mà dịch là Kiếp tro bay hết thì còn gì hay hơn? Cổ kim bình thì ta không cần dịch cũng được, cứ để cổ kim bình, ai mà không biết? Nhà tu này thật khó tính.


      Để xem trong những bài khác, Tuệ Sỹ dịch như thế nào.

      Bài Thu Lai của Lý Hạ:


      Đồng phong kinh tâm tráng sĩ khổ

      Suy đăng lạc vĩ đề hàn tố

      Thùy khan thanh giản nhất thiên thơ

      Bất khiển hoa trùng phấn không đố

      Tư khiên kim dạ trường ưng trực

      Vũ lãnh hương hồn điếu khách thơ

      Thu phần quỉ xướng bảo gia thi

      Hận huyết thiên niên thổ trung bích


      Tuệ Sỹ dịch nghĩa:


      Gió heo may rợn hồn tráng sĩ

      Lạnh se da, dế rỉ đèn lu.

      Dở trang bóng chữ lờ mờ

      Mấy rây mọt phấn ơ hờ điểm hoa.

      Buồn ray rứt kéo ra ruột thẳng

      Khóc người thơ, mưa lạnh hồn ma

      Tanh hôi giọng quỉ trên gò

      Máu hờn thiên cổ xanh mồ cỏ thu.

      (Tuệ Sỹ, Thời Tập, 1973)

      Như dịch giả ghi chú, đây chỉ là dịch nghĩa. Dịch giả dùng thể song thất lục bát, hai câu bảy, rồi một câu lục một câu bát. Câu thứ ba có hai chữ tuyệt vời: Bóng Chữ. Phải chăng nhà thơ Lê Đạt ở Hà Nội đã đọc bài này trước khi in tập thơ Bóng Chữ cách đây vài năm?


      III.


      Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương sinh ngày 15 Tháng Hai, 1943 tại Paksé, Lào, nguyên quán Quảng Bình, Trung phần, Việt Nam, qui y Phật từ thuở đồng nhi, tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Phật Học Sàigòn năm 1964 và Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1965, phân khoa Phật học. Được đặc cách bổ nhiệm Giáo sư thực thụ Viện Đại Học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ những công trình nghiên cứu và những khảo luận Triết học có giá trị hết sức cao, như ĐẠI CƯƠNG VỀ THIỀN QUÁN, TRIẾT HỌC VỀ TÁNH KHÔNG (Sunyavada), (An Tiêm Saigon, 1970). Rất giỏi chữ Hán, rành chữ Pháp, chữ Anh, đọc được chữ Pali và chữ Phạn. Ông cũng đọc hiểu tiếng Đức, nghiên cứu kỹ Heideger và Hoelderlin. Cuốn THIỀN LUẬN nổi tiếng của D.T Suzuki bản Việt ngữ là do ông dịch.


      Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa, đọc và nghiên cứu Tô Đông Pha từ nguyên tác, để lại một tác phẩm chan hòa tính thơ: TÔ ĐÔNG PHA, NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG (Ca Dao Saigon, 1973). Những lúc rảnh, ông chơi dương cầm. Ông làm nhiều thơ, viết một số truyện ngắn đặc sắc, phần lớn đăng trên Tạp chí Khởi Hành (1969-1972) và Thời Tập tại Sàigon (1973-1975), khi đứng tên trong Bộ Biên Tập tạp chí này. Ông cũng là Chủ bút Tạp chí Tư Tưởng của Viện Đại Học Vạn Hạnh.



         Bản tin Anh ngữ phổ biến cho Văn Bút Mỹ

      Vào ngày 1 Tháng Tư, 1984, Thượng Tọa Tuệ Sỹ bị nhà cầm quyền Hà Nội bắt giữ cùng giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và 19 tăng ni, sĩ quan cũ của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, bị kết án âm mưu võ trang lật đổ chính quyền và trong phiên tòa kéo dài nhiều ngày cuối Tháng Chín, 1988, ngày 30 ông bị lên án tử hình cùng giáo sư Lê Mạnh Thát. Cộng sản nói có tìm thấy võ khí trong chùa Già Lam.


      Do sự tranh đấu tích cực của các cơ quan Nhân quyền Quốc tế, trong có Hội Ân Xá Quốc Tế và Văn Bút Thế Giới, cũng như Ủy ban Tranh đấu cho Quyền Làm Người Việt Nam của ông Võ Văn Ái, trụ sở đặt tại Ba Lê, Hà Nội phải giảm án xuống còn chung thân khổ sai, đem giam Tuệ Sỹ tại trại A.20 tại Phú Yên. Tháng 10.1994, cùng 200 tù nhân, ông tham gia biểu tình đòi gặp phái đoàn Liên Hiệp Quốc và thực hiện các quyền khác, nên bị Hà Nội đày ra Bắc.


      Những lời tuyên bố của người tù lương tâm Tuệ Sỹ, tại Tòa Án, cũng như khí phách kiên cường lúc trong tù, là gương sáng chói lọi, và niềm tự hào của Phật giáo: “Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo, là lập trường của toàn khối dân tộc”. (trích theo Hòa Thượng Thích Mãn Giác). Năm 1998, Hà Nội thả Thượng tọa, cùng với một số người khác. Trước đó, ông tuyệt thực trong tù. Trước khi thả, họ muốn Tuệ Sỹ ký vào lá đơn Xin Khoan Hồng để gởi lên ông Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Tuệ Sỹ trả lời: “Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi”. Họ nói không viết đơn thì không thả. Tuệ Sỹ không viết, và tuyệt thực. Họ phải thả ông, sau 10 ngày tuyệt thực. Hôm đó là ngày 1 Tháng Chín 1998.


      Sáng hôm sau, lúc 10 giờ 45, Thượng tọa Tuệ Sỹ được đưa lên tàu hỏa về Nam. Theo lời kể với ông Võ Văn Ái, Thượng tọa ngồi suốt 36 tiếng đồng hồ trên tàu thì không thể chịu đựng thêm, vì rất yếu sau 10 ngày không ăn ở trong tù. Ông xuống Nha Trang, vào Phật học viện Hải Đức.


      Thượng tọa Tuệ Sỹ tuyệt thực một mình, không có tổ chức, báo chí không biết. Ông tuyệt thực “để khẳng định mình”, như ông nói. Ít lâu sau, Hà Nội lại ra lệnh ông phải về chốn cũ, là chùa Già Lam ở Gia Định, chứ không được ở lại Hải Đức. Ông từ chối, viết một lá thư gửi nhà cầm quyền Hà Nội, nói một là ở Hải Đức, hai là vào tù trở lại. Tin này có loan trên báo chí hải ngoại.


      Trước sau, tác giả Những Phương Trời Viễn Mộng đã bị giữ trong nhà tù Cộng sản 14 năm. Giữa Tháng 4.1999, Hòa thượng Quảng Độ đề cử Thượng tọa Tuệ Sỹ làm Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo.


      IV.


      Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn

      Treo gót hài trên mái tóc vào thu…

      (Tuệ Sỹ, Mười Năm Trong Cuộc Lữ)



         Thầy Tuệ SỹThân Mẫu

      Cho tới nay, kể cả những bài thơ đầu tiên đăng trên Tạp chí Tư Tưởng, năm 1970, Tuệ Sỹ chỉ mới cho phổ biến được khoảng dưới 10 bài thơ. Thời gian ở tù, ông có chuyển ra ngoài một số bài, song ít người được đọc.


      Dâng nhúm cơm tù phạm

      Cúng dường Đấng Tối Cao

      Cõi Đời đằm máu hận

      Nâng chén nước mắt trào.

      (Tuệ Sỹ, Cúng Dường)


      Thơ Tuệ Sỹ giai đoạn đầu cho người đọc thấy một pha trộn kỹ thuật của người đã đọc nhuần nhuyễn VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH của Nguyễn Du và CUNG OÁN NGÂM KHÚC của Nguyễn Gia Thiều. Cũng có cả CHINH PHỤ NGÂM của Đặng Trần Côn. Đó là những Truyện Thơ. Thơ có chuyện để kể.


      Các nhà thơ Miền Nam thập niên ’70 ít người dùng đến thể thơ truyện, như tám chữ hay song thất lục bát; Tuệ Sỹ dùng một đôi lần thể song thất, phần lớn dùng thể tám chữ. Trong 10 bài đã phổ biến của ông, ta hãy đọc:


      Này đêm rộng như khe rừng cửa biển

      Hai bàn tay vén lại tóc xa xưa

      (Không Đề – Tạp chí Tư Tưởng bộ mới, số 8, 12.1970)


      Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn

      Treo gót hài trên mái tóc vào thu.

      (Mười Năm Trong Cuộc Lữ, Tư Tưởng)


      Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải

      Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng

      (Tôi Vẫn Đợi)


      Chuyện đã kể rồi hồng hoang lững thững

      Vẫy tay chào nối gót chẳng buồn trông

      (…)

      Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ

      Áo màu xanh không xanh mãi (trên) đồi hoang.

      (Mơ Tuổi Vàng, Khởi Hành)


      Thơ tám chữ, bản chất là thơ kể. Bài thơ tám chữ được nhắc nhở nhiều nhất thời Tiền chiến là bài Nhớ Rừng của Thế Lữ:


      Gậm một mối căm hờn trong cũi sắt,

      Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.

      (Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh Hoài Chân, Hoa Tiên, 1968)


      Sau 1954, Đinh Hùng là vua thơ tám chữ ở Miền Nam:


      Lòng đã khác, ta trở về Đô Thị

      Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa.

      (Bài Ca Man Rợ)


      Ta thường có từng buổi sầu ghê gớm

      Ở bên Em - Ôi biển sắc rừng hương!

      (Kỳ Nữ)


      Trong lớp các thi sĩ lúc ấy, Tuệ Sỹ nổi lên với những bài thơ tám chữ mênh mang, kể những chuyện từ tâm thức hồng hoang xáo trộn với thời thế nhiễu nhương, trong đó những hình ảnh bát ngát nhất là núi rừng, dòng sông cạn, triều dâng, nước chảy, nước lũ, bờ bến lạ, ghềnh đá dựng, suối trăng, tóc xa xưa, tóc huyền, tóc vào thu, tóc cũ, tóc trắng, nói mộng, viễn mộng, cuộc lữ… Nếu thơ Phạm Thiên Thư đầy màu xanh hoa vàng của một thiên nhiên êm đềm thì thơ Tuệ Sỹ phiêu hốt hùng vĩ với màu đá, màu rừng già khô lạnh, thác ghềnh, và một mái tóc sơ huyền. Đó là những thiên nhiên khác.


      Thơ tám chữ không ẻo lả như lục bát. Tuệ Sỹ nhỏ người, mà rất cứng cỏi. Lời thơ ông không là lời nói suôn sẻ, êm tai, mà là khối tâm sự ngổn ngang. Trước hết, nghĩ về mình, có thể ông nghĩ như sau:


      Như cánh hải âu cuối trời biển lộng

      Bồng bềnh bay theo cánh mỏng ngàn đời…


      Cánh hải âu ấy hay bay lượn trên một bờ biển hoang vu, tìm nét hồng trong đá xám, kiếm huyền nhiệm trong biểu dâu hưng phế:


      Chiều lắng đọng thênh thang ghềnh đá dựng

      Những nỗi buồn nhân thế cũng phôi pha.

      Màu nhiệm nào đằng sau bao hủy diệt

      Mà nụ hồng vừa nở thắm ven khe.

      ....


      Nếu cho mình là cánh chim, thì cánh chim Tuệ Sỹ thấy thiên nhiên đất trời vô cùng khắc nghiệt:


      Hàng thạch thảo dọc thiên đường tàn úa

      Tháng ngày qua thoáng hắt bóng trên đồi

      Con chim sớm bay tìm từng hạt lúa…

      ....

      Một buổi sáng nghe chim buồn đổi giọng

      Người thấy ta xô dạt bóng thiên thần.


      V.


      Hình bóng thiên nhiên khắc nghiệt, mà hình bóng con người cũng không hơn. Chia xa, mất hút. Kể cả con người ấy là mẹ:


      Mẹ già thôi khóc cho thân phụ

      Lại khóc cho đời ta phiêu linh


      Con người trong thơ Tuệ Sỹ không được thể hiện bằng vóc dáng, dung nhan, cặp môi, khoé mắt, tiếng cười, giọng nói. Con người trong thơ Tuệ Sỹ chỉ là mái tóc. Có cả năm bảy mái tóc trong tâm thức Ðông Tà:

      Tang thương một giải tóc huyền

      Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu.

      Gởi thân gió cuốn sa mù

      Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng

      Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng

      Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều

      Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu

      Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu

      (Sơ Huyền, Khởi Hành)


      Xưa xanh lên tóc huyền sương nặng

      Trong giấc mơ lá dạt xa bờ.

      (Mùa Mưa Cao Nguyên, Khởi Hành)


      Bờ bến lạ chút tự tình với bóng

      Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm

      Nào đâu nữa tóc em như gió cuốn

      Người ra đi tâm sự với hoàng hôn


      Tượng đồng tạc bóng cô liêu

      Trời xanh tóc trắng bao nhiêu chuyện rồi

      Này đêm rộng như khe rừng cửa biển

      Hai bàn tay vén lại tóc xa xưa

      (Không Đề, Tư Tưởng)

      Mái tóc trong thơ Tuệ Sỹ phải chăng là bờ môi nhục cảm trong thơ Xuân Diệu, vì Xuân Diệu không sợ tiếp xúc; phải chăng là con mắt đắm đuối của Hàn Mặc Tử, vì Hàn Mặc Tử không thể đụng chạm; hay đó là bàn tay trong thơ Lưu Trọng Lư, vì Lưu Trọng Lư ngại chia phôi?


      Mái tóc trong thơ Tuệ Sỹ phải chăng là bờ vai của Huy Cận, vì Huy Cận muốn tựa đầu; là xiêm áo của Bích Khê, vì Bích Khê suốt đời mong một dáng tầm xuân, một tấm thân kiều diễm? Mái tóc của Tuệ Sỹ phải chăng là bàn chân của Ðinh Hùng, vì Ðinh Hùng luôn luôn quì dâng, sùng bái? Là lưng mềm của Vũ Hoàng Chương, bởi Vũ Hoàng Chương thích riết đôi tay, tiến đôi chân? Mái tóc ấy là gì? Một thục nữ? Một giai nhân? Những câu hỏi ấy đêm nay tôi chẳng thể trả lời, chỉ biết mái tóc trong thơ Tuệ Sỹ chưa chắc là có thật, mà có thật; chưa hẳn là không, mà vẫn không. Mái tóc ấy, biết đâu chẳng phải là một phương trời viễn mộng, cái viễn mộng thanh cao của một thị giả thích ngắm nhìn đất đỏ, áo xanh, cỏ vàng, đêm đen, nụ hồng, và tóc? Mái tóc ấy nhất định là người, song là ai? Hay chẳng là ai cả, mà chỉ là những đổi thay trong Cuộc Lữ, từ lúc mưa xanh tới nắng hạ, từ thuở  hồng hoang tới tàn úa thiên đường?


      Và, tâm thức ấy, vì sao lại nhìn thấy tù ngục, như trong bài Tôi Vẫn Ðợi:

      Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải

      Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng

      Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi

      Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng.


      Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió

      Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa

      Nhìn hun hút cho dài thêm Lịch Sử

      Dài con sông tràn máu lệ Quê Cha…


      Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ

      Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương

      Người ở lại với bàn tay bạo chúa

      Cọng lau gầy trĩu nặng bóng tà dương.


      Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng

      Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu

      Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng

      Như sương mai như bóng chớp mây chiều.

      Bài thơ trên quả là Một lần định như sao ngàn đã định. Ðịnh từ một Cái định của ngàn sao, của không hư. Của 14 năm tù đày. Cho Quê Hương và Ðạo Pháp.


      Viên Linh

      5.1999

      Viên Linh

      Tạp chí Khởi Hành số 31, Tháng 5.1999

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Điếu thi: Thủ̉y Mộ Quan Viên Linh Thơ

      - Bạch thư Phạm Huấn Viên Linh Nhận định

      - Tuệ Sỹ, Tù Đày Và Quê Nhà Viên Linh Nhận định

      - Tuệ Sỹ Giữa Mùa Thay Đổi Viên Linh Nhận định

      - Ngọc Linh (1931-2002), nhà văn với bốn chữ mặn mà Viên Linh Hồi ký

      - Nỗi âu lo của nhà giáo Bảo Vân Viên Linh Hồi ký

      - Con hạc của vua Tự Đức Viên Linh Giai thoại

      - Tản Đà Và Hai Chữ Non Nước Viên Linh Hồi ký

      - Hoài Điệp Tử, nhà văn nhà báo chết trong ngọn lửa Bolsa Viên Linh Hồi ký

      - Văn Quang - Giải Văn Chương Toàn Sự Nghiệp Khởi Hành 2009 Viên Linh Thông báo

    3. Bài viết về Thầy Tuệ Sỹ (Học Xá) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Bài viết về Tuệ Sỹ

        Cùng Tác Giả (Link-1)

      Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ Và Nhân Quyền (Hoàng Dung)

      Tuệ Sỹ, Tù Đày Và Quê Nhà (Viên Linh)

      Tuệ Sỹ Và Giấc Mơ Trường Sơn (Quảng Đức)

      Tuệ Sỹ Giữa Mùa Thay Đổi (Viên Linh)

      Tuệ Sỹ, viễn mộng mấy khung trời (Nguyễn Mạnh Trinh)

      - Bùi Giáng viết về thơ Tuệ Sỹ

      - Lê Mạnh Thát và Thích Tuệ Sỹ – Hai Vị Thiền Sư (Phạm Công Thiện)

      - Thầy Tuệ Sỹ là viên ngọc quý của Phật Giáo và của Việt Nam (Nhiều tác giả)

      - Vì sao Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ bước ra nhận Phật sự, lại được ủng hộ? (Tuấn Khanh)

      - "Tuệ Sỹ – Tinh Hoa Phật Giáo Việt Nam, Vị Thầy Của Bốn Chúng" của Bạch Xuân Phẻ (Nguyên Giác)

      - Lịch sử và tình hình tiếp nhận thơ Tuệ Sỹ (Tâm Thuần)

      - ‘Piano Sonata 14,’ một truyện ngắn của Tuệ Sỹ (Trần Doãn Nho)

      - Cuối năm đi thăm Thầy Tuệ Sỹ (Đỗ Hồng Ngọc)

      - Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (Đinh Quang Anh Thái)

      - Đọc lại thơ Tuệ Sỹ (Nguyễn Mộng Giác)

      - Hòa Thượng Tuệ Sỹ, Trí Siêu những thiên tài lỗi lạc (Thích Nguyên Siêu)

      - Bài thơ tứ tuyệt của Tuệ Sỹ (Nguyên Lạc)

      - “Bỉnh Bát Lệ Vô Ngôn” Trong Bài Tuyệt Thi “cúng Dường” Của Thi Sĩ, Thiền Sư Tuệ Sỹ (Trần Ngẫu Hồ)

       

      Tác phẩm của Tuệ Sỹ

        Cùng Tác Giả (Link-2)

      Định Hướng Tương Lai Với Thế Hệ Tăng Sĩ Trẻ (Tuệ Sỹ)

      Lục bát Viên Linh (Tuệ Sỹ)

      - Thích Tuệ Sỹ: Tâm thư của Hội Đồng Hoằng Pháp

      - Những Phương Trời Viễn Mộng:

         - Tập I - Tập II

      - Piano Sonata 14

      - Gốc Tùng

      - Sư Thiện Chiếu

      - Giấc Mơ Trường Sơn

      - Viết cho Đức Hạnh

      - Tuệ Sỹ viết về Nguyễn Đức Sơn

      Tác phẩm trên mạng:

      - quangduc.com        - phatviet.info

      - thuvienhoasen.org  - thivien.net

      - daophatngaynay.com

      - phannguyenartist.blogspot.com

      - tranthinguyetmai.wordpress.com

       

      Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Hồi tưởng lại 32 năm trước về chuyến đi Định Mệnh của tàu Trường Xuân (Phạm Ngọc Lũy)

      Linh Bảo - Tác Giả Tầu Ngựa Cũ Qua Đời (Trần Mộng Tú)

      Vài suy nghĩ nhân đọc Mây trên đỉnh núi của Nguyên Vũ (Đỗ Trường)

      Giới thiệu tác phẩm Mắt Ngọc của Dương Thượng Trúc (Điệp Mỹ Linh)

      Chữ Tâm trong văn học Việt (Thái Công Tụng)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học Miền Nam (Học Xá) Văn Học (Học Xá)

       

      Tác Giả

       

      Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)

        Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)

        Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)

        Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)

      Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)

        Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)

      Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)

      Dương Quảng Hàm (Viên Linh)

      Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)

      Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)

        Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

      Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)

      Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)

      Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)

      Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn

      Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)

      Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)

      Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)

      Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)

      Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)

      Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh

       (Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)

      Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)

      Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn

      Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)

      Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An

      Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)

      Danh Mục Tác Giả: Cùng Chỉ Số (Link-2) An Khê,  Andrew Lâm,  Andrew X. Phạm,  Au Thị Phục An,  Bà Bút Trà,  Bà Tùng Long,  Bắc Phong,  Bàng Bá Lân,  Bảo Vân,  Bích Khê,  Bình Nguyên Lộc,  Bùi Bảo Trúc,  Bùi Bích Hà,  Bùi Giáng,  Bùi Kỷ,  

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)